Bản án 103/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 103/2019/HS-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 107/2019/TLST-HS ngày16 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2019/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Xuân H, sinh ngày 24 tháng 02 năm 19xx tại T1, B2; nơi cư trú: Tổ 106, khu 8A, phường P1, thành phố P, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Xuân B1, sinh năm 1934 (đã chết) và bà Phạm Thị M, sinh năm 1936; có vợ là chị Phạm Thị O1, sinh năm 1975; có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2012 đi cai nghiện bắt buộc tại trại cai nghiện Vũ Oai, đến năm 2013 về địa phương. Bị bắt quả tang ngày 22/5/2019, hiện tạm giam- có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị O1, sinh năm 1975. Nơi cư trú: Tổ 106, khu 8A, phường P1, thành phố P, tỉnh N - có mặt.

* Người làm chứng:

+ Anh Trần Văn O2, sinh năm 1992; nơi cư trú: Tổ 106, khu 8A, phường P1, thành phố P, tỉnh N.

+ Anh Nguyễn Thanh T2, sinh năm: 1962; nơi cư trú: Tổ 19, khu 2A, phường P1, thành phố P, tỉnh N.

(Người làm chứng đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ 30 phút ngày 22/5/2019, tại khu vực đường dân sinh thuộc tổ 89, khu 7B, phường P1, thành phố P, tỉnh N, Công an phường P1 phối hợp với Công an thành phố P bắt quả tang Bùi Xuân H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu trên tay trái của H 01 túi nilon màu trắng kích thước (01x02)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M1); Thu ở túi quần bên phải phía trước 01 gói bằng tờ tiền 200 đồng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M2). Thu ở túi quần bên trái phía trước 01điện thoại di động OPPO màu trắng lắp sim số 0398941655 và số tiền 285.000 đồng; thu 01 xe máy điện S màu đỏ đã cũ.

Tại bản kết luận giám định số: 413/GĐMT ngày 25/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N, kết luận: Mẫu vật kí hiệu M1, M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,323gam. Hoàn lại 0,18gam Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Bùi Xuân H khai nhận: Trước khi bị bắt khoảng 4 tháng, H quen biết S, đã nhiều lần mua ma túy của S. Khoảng 15 giờ ngày 22/5/2019, H gọi điện thoại cho S hỏi mua ma túy đá. S đồng ý. H dùng xe máy điện của gia đình đi đến nhà gặp S, đưa cho S 300.000 đồng. S cầm tiền và đưa cho H 01 túi nilon ma túy đá, H cầm ở tay rồi đi xe về. Khi đi đến bến xe Cao S, phường Cẩm S, thành phố P, tỉnh N thì thấy túi nilon bị bục làm ma túy đá rơi ra tay. H dừng xe, nhặt tờ tiền 200 đồng ở dưới đường gói số ma túy bị rơi ra tay lại, cất vào túi quần. Rồi dùng bật lửa hàn túi nilon ma túy đá cầm ở tay tiếp tục đi về.

Khi đi qua khu vực cấp cứu mỏ thuộc phường P1 thì bị công an bắt quả tang thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Mục đích H mua ma túy là để sử dụng.

Tại bản cáo trạng số: 105/CT-VKS-CP ngày 14 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố Bùi Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Xuân H từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt 22/5/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định; Tịch thu sung ngân sách nhà nước chiếc điện thoại OPPP; Trả lại bị cáo 285.000 đồng; Trả lại chị Phạm Thị O1 01 chiếc xe máy điện.

Tại phiên tòa, bị cáo H khai nhận về hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố. H đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo H không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo H về việc ngày 22/5/2019, trên đường đi mua ma túy về để sử dụng thì bị công an bắt quả tang là hoàn toàn phù hợp với lời khai của anh Trần Văn O2, Nguyễn Thanh T2 là những người làm chứng việc công an kiểm tra, thu giữ, niêm phong ma túy và những đồ vật có liên quan; phù hợp với Kết luận giám định số 413/GĐMT ngày 25 tháng 5 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N.

Đi với việc bị cáo khai số ma túy bị thu giữ nêu trên là do bị cáo mua của người tên là S (còn gọi là S mầu). Cơ quan điều tra đã tiến hành cho bị cáo nhận dạng và cung cấp địa chỉ của S. Kết quả điều tra đã xác định: S chính là Lê Hồng S, sinh năm 1987, đăng ký HKTT tại: Số nhà 36, tổ 8, khu Bình S, phường Cẩm S, thành phố P, tỉnh N, hiện S vắng mặt tại gia đình, địa phương. Cơ quan công an tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

[3] Đánh giá các chứng cứ nêu trên, kết hợp với các chứng cứ tài liệu đã được cơ quan điều tra xác minh, thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong tài liệu, đồ vật bị tạm giữ; Biên bản kiểm tra điện thoại…, thấy có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 22/5/2019, tại khu vực đường dân sinh thuộc tổ 89, khu 7B, phường P1, thành phố P, Bùi Xuân H có hành vi tàng trữ trái phép 0,323 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo Bùi Xuân H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự. Hành vi đó đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo không những gây mất an ninh trật tự tại địa phương mà còn tiếp tay cho những kẻ buôn bán ma túy khác. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc nhưng vẫn không từ bỏ được việc sử dụng ma túy. Do đó cần có mức án nghiêm khắc để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội và đấu tranh phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện sự nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với chiếc bật lửa bị cáo dùng để hàn túi nilon ma túy, bị cáo đã làm rơi mất nên không đề cập giải quyết.

Đi với số ma túy hoàn lại sau giám định, là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đi với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đi với chiếc xe máy điện đã cũ, chị O1 (vợ bị cáo) khai mua từ năm 2016 của một người không quen biết với giá 2.000.000 đồng. Đây là phương tiện đi lại của gia đình chị, chị không biết bị cáo dùng chiếc xe này để đi mua ma túy. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, trả lại chiếc xe cho chị O1.

Số tiền 285.000 đồng thu giữ của bị cáo, không chứng minh được có liên quan đến việc phạm tội, nên trả lại bị cáo.

[7] Các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Bị cáo Bùi Xuân H 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 22/5/2019.

Căn cứ: điểm a, c khoản 1 khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy hoàn lại sau giám định có trong phong bì còn nguyên dấu niêm phong số 413/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N;

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO;

- Trả lại bị cáo Bùi Xuân H 285.000đ (hai trăm tám mươi lăm nghìn đồng);

- Trả lại chị Phạm Thị O1 01 xe máy điện màu đỏ.

Các khoản trên theo Biên bản giao nhận vật chứng số 136/BB-THA ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh N.

Căn cứ: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Bùi Xuân H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Bùi Xuân H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị O1 được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 103/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:103/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;