Bản án 103/2018/HS-ST ngày 24/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN,  TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 103/2018/HS-ST NGÀY 24/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 104/2018/HSST ngày 21 tháng 9 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Mùa Thị C. Tên gọi khác: không. Sinh năm 1954 tại huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Bản A, xã B, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Mùa A C1 (đã chết) và bà: Phàng Thị C2 (đã chết); Bị cáo có chồng là Sồng A C3 (đã chết); Bị cáo có 09 con, con lớn nhất sinh năm 1971 và con nhỏ nhất sinh năm 1997.

Tiền án: 01. Tại bản án số 09/2015/HSST ngày 11/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đã xử phạt Mùa Thị C 24 tháng tù giam. Bị cáo chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2018, giam tại Nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Sồng Thị D, sinh năm 1997. Địa chỉ: Bản E, xã F, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Người phiên dịch: Ông Và A Trịa – Cán bộ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 20 phút ngày 06/6/2018 tổ công tác Công an huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đang làm nhiệm vụ tại khu vực bản A, xã B, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La phát hiện đối tượng Mùa Thị C, sinh năm 1954, cư trú tại Bản A, xã B, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và 03 đối tượng: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1990, cư trú tại tiểu khu H1, thị trấn H2, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; Hà Văn I, sinh năm 2002, cư trú tại bản I1, xã I2, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và Sồng Thị J, sinh năm 1972, cư trú tại bản J1, xã J2, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La đang tụ tập trong nhà Mùa Thị C có biểu hiện nghi vấn mua bán trái phép chất ma túy. Tổ công tác kiểm tra đối với Mùa Thị C phát hiện 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa 08 viên nén màu hồng, trên một mặt mỗi viên đều có kí hiệu “WY” nghi là ma túy tổng hợp (Hồng phiến), Mùa Thị C đang cầm trên tay phải; kiểm tra phát hiện 02 gói nilon màu xanh bên trong mỗi gói đều chứa chất bột nén màu trắng nghi là heroine tại nền nhà, cách bàn chân phải của Mùa Thị C 3cm, cách vị trí của H và I 01m, cách vị trí của J 05m. Tổ công tác yêu cầu Mùa Thị C nhặt 02 gói nilon màu xanh dưới đất giao nộp cho tổ công tác. Kiểm tra người của H, J, I không thu giữ gì. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Mùa Thị C và niêm phong vật chứng nêu trên.

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn ra lệnh khám xét khẩn cấp đối với Mùa Thị C. Kết quả khám xét phát hiện thu giữ: 01 gói nilon màu xanh, bên trong chứa 14 gói đều được gói bằng nilon màu xanh, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột nén màu trắng nghi là Heroine tại vị trí giường ngủ gần giáp khu vực bếp của gia đình C; 01 viên nén màu hồng, một mặt có ký hiệu “WY” nghi là ma túy tổng hợp (Hồng phiến) trong tàn tro tại bếp nhà C; 6.200.000VNĐ (Sáu triệu hai trăm ngàn đồng) trong túi đeo trước đai thắt lưng ở trước bụng của C; 01 cân điện tử vỏ màu đen, ghi nhãn hiệu “POCKET SCALE” tại hòm gỗ gần vị trí bếp nhà C; 17 mảnh giấy bạc tại chân cột nhà gần giường ngủ của C; 01 điếu tự chế bằng chai nhựa có gắn ống hút, trên ống hút ghi chữ “BIRdy” tại vị trí gần bếp lửa nhà C; 01 điếu tự chế bằng nhựa màu trắng có gắn ống hút tại chân giường ngủ cạnh tủ quần áo giáp trái nhà C.

Quá trình điều tra Mùa Thị C khai nhận:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 05/6/2018, C đi bộ từ nhà thuộc bản A, xã B, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đến khu vực rừng thuộc bản A, xã B, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La cách nhà C 200m. Chu gặp một người nữ giới (không quen biết), hỏi mua được 250.000VNĐ heroine để sử dụng cho bản thân. Về nhà, C chia số heroine thành 20 phần, C lấy một mảnh nilon màu xanh xé thành 20 mảnh nhỏ, rồi gói heroine đã chia vào các mảnh nilon và cho tất cả các gói heroin vừa gói vào 01 túi nilon màu xanh rồi giấu trên giường ngủ của C gần bếp của gia đình, để sử dụng dần. Hiện tại C đã sử dụng hết 04 gói nhỏ heroine.

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 06/6/2018, C đi bộ ra đường cách nhà khoảng 20m gặp và mua của Sồng Thị G, sinh năm 1986, cư trú tại bản G1, xã G2, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La 09 viên hồng phiến với giá 200.000VNĐ để sử dụng cho bản thân. Sau đó đi về nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Mai Sơn bắt quả tang và khám xét thu giữ toàn bộ vật chứng.

Ngày 07/6/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn phối hợp với phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mu giám định đối với vật chứng thu giữ của Mùa Thị C. Kết quả:

Tổng khối lượng 08 viên nén màu hồng, trên một mặt mỗi viên đều có kí hiệu “WY” nghi là ma túy tổng hợp (Hồng phiến) trong gói vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Mùa Thị C là 0,79 gam; trích rút toàn bộ, ký hiệu M1 để làm mu giám định.

Tổng khối lượng chất bột nén màu trắng nghi là heroine trong 02 gói vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Mùa Thị C là 0,11gam; trích rút toàn bộ, ký hiệu M2, M3 để làm mu giám định.

Tổng khối lượng chất bột nén màu trắng nghi là heroine trong 14 gói vật chứng thu giữ khi khám xét là 1,01gam; trích rút toàn bộ, ký hiệu từ M4 đến M17 để làm mu giám định.

Khối lượng 01 viên nén màu hồng, một mặt viên nén có ký hiệu “WY” nghi ma túy tổng hợp (Hồng phiến) là 0,09gam; trích rút toàn bộ, ký hiệu M18 để làm mu giám định.

Ngày 13/6/2018, Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản kết luận giám định số 723 kết luận:

 “Mẫu gửi giám định ký hiệu M1, M18 là ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu giám định là M1= 0,79gam, M18= 0,09gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu M2, M3, M4, M5, M6, M7, M8 ,M9, M10, M11, M12, M13, M14, M15, M16, M17 là ma túy; loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là M2= 0,05gam, M3= 0,06gam, M4= 0,06gam, M5= 0,07gam, M6= 0,07gam, M7= 0,08gam, M8= 0,08gam ,M9= 0,06gam, M10= 0,08gam, M11= 0,08gam, M12= 0,08gam, M13= 0,08gam, M14= 0,10gam, M15= 0,07gam, M16= 0,08gam, M17= 0,02gam; Tổng khối lượng chất ma tuý thu giữ là 0,88gam, loại chất Methamphetamine và 1,12gam chất ma túy, loại chất Heroine.”

Tại phiên toà bị cáo Mùa Thị C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Bản cáo trạng số 82/CT-VKSMS ngày 20/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Mùa Thị C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Mùa Thị C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Mùa Thị C từ 30 đến 36 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu, các mảnh nilon gói ma túy ban đầu được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định; 17 mảnh giấy bạc được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định; 01 điếu tự chế bằng nhựa, có gắn ống nhựa có dòng chữ BIT; 01 điếu tự chế bằng nhựa màu trắng có gắn ống hút, đã qua sử dụng cũ.

Tịch thu sung công qu Nhà nước 01 cân điện tử nhãn hiệu POCKET SCALE của Mùa Thị C.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sồng Thị D số tiền 6.200.000VNĐ.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Bị cáo Mùa Thị C tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Mai Sơn, Kiểm sát viên, thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Mùa Thị C khai nhận: Mùa Thị C là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 05/6/2018, Mùa Thị C đã mua 250.000VNĐ heroine. Ngày 06/6/2018, Mùa Thị C đã mua 200.000VNĐ Methamphetamine. Cùng ngày C bị tổ công tác công an huyện Mai Sơn bắt quả tang, thu giữ 0,11gam heroine và 0,79gam Methamphetamine. Khám xét khẩn cấp thu giữ 1,01gam heroine và 0,09gam Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ 20 phút ngày 06/6/2018 của tổ công tác Công an huyện Mai Sơn, biên bản mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mu giám định và niêm phong lại vật chứng hồi 16 giờ 00 phút ngày 07/6/2018 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn; phù hợp với kết luận giám định số 723 ngày 13/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La, phù hợp với biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn.

Như vậy, với việc tàng trữ tổng số 1,12gam Heroine và 0,88gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Mùa Thị C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn truy tố bị cáo tại Bản cáo trạng số: 82/CT-VKSMS ngày 20/9/2018 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...”

 [3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, dân sự. Bị cáo đã từng bị xét xử vào năm 2015 cũng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên bị cáo nhận thức rõ được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, do thiếu rèn luyện, tu dưỡng, bị cáo đã tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho các đối tượng hám lời có cơ hội lưu thông, buôn bán ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì lẽ đó khi lượng hình cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

 [4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo xét thấy: Tại bản án số 09/2015/HSST ngày 11/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đã xử phạt Mùa Thị C 24 tháng tù giam; tính đến ngày bị cáo phạm tội là ngày 06/6/2018 bị cáo chưa được xóa án tích. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự sẽ được áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo phần nào vì tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về việc đã làm. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự sẽ được Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo.

Từ sự phân tích trên, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù giam với mức phạt nghiêm khắc, đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội, từ đó có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

 [5] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh của Cơ quan điều tra và tại phiên tòa xét thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, thu nhập không ổn định. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

 [6] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ khi bắt quả tang bị cáo vật chứng gồm: tổng số 1,12gam Heroine và 0,88gam Methamphetamine đã trích rút toàn bộ làm mẫu giám định.

Đối với 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu, các mảnh nilon gói ma túy ban đầu được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định; 17 mảnh giấy bạc được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định; 01 điếu tự chế bằng nhựa, có gắn ống nhựa có dòng chữ BIT; 01 điếu tự chế bằng nhựa màu trắng có gắn ống hút, đã qua sử dụng cũ. Xét thấy đây là những vật dùng vào việc phạm tội và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 cân điện tử nhãn hiệu POCKET SCALE của bị cáo Mùa Thị C, là vật sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung công qu Nhà nước.

Đối với số tiền 6.200.000VNĐ: xét thấy đây là tài sản hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Sồng Thị D, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Mùa Thị C nên cần trả lại cho chị Sồng Thị D.

 [7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

 [8] Về các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số ma túy (heroine) Chu khai mua của một người phụ nữ không quen biết, việc mua bán không có ai chứng kiến, vì vậy cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn không có cơ sở để điều tra xác minh.

Đối với số ma túy tổng hợp (hồng phiến) C khai mua của đối tượng Sồng Thị G, sinh năm 1986 trú tại bản G1, xã G2, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Quá trình điều tra xác định có đối tượng tên là Sồng Thị G, tuy nhiên G không có mặt tại nơi cư trú, chính quyền và gia đình không biết G đi đâu, làm gì. Hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ.

Đối với Nguyễn Thị Thu H, Hà Văn I, Sồng Thị J quá trình điều tra xác định: H, I, J không biết việc Mùa Thị C tàng trữ trái phép chất ma túy. Nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn không đặt vấn đề xử lý đối với H, I, J.

Quá trình điều tra bị can Mùa Thị C đã khai nhận: Để có ma túy sử dụng cho bản thân nên trong hai ngày 05/6/2018 và ngày 06/6/2018 C đã mua heroine và hồng phiến của một người phụ nữ không quen biết và một người phụ nữ tên Sồng Thị G để sử dụng cho bản thân, khi bị bắt quả tang và khám xét đã thu giữ được vật chứng. Ngoài lời khai của C không có chứng cứ khác quy kết C mua 02 lần ma túy. Cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Mùa Thị C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt bị cáo Mùa Thị C 30 (ba mươi) tháng tù giam. Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 06/6/2018).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu, các mảnh nilon gói ma túy ban đầu được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định; 17 mảnh giấy bạc được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định; 01 điếu tự chế bằng nhựa, có gắn ống nhựa có dòng chữ BIT; 01 điếu tự chế bằng nhựa màu trắng có gắn ống hút, đã qua sử dụng cũ.

Tịch thu sung công qu Nhà nước 01 cân điện tử nhãn hiệu POCKET SCALE của Mùa Thị C.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sồng Thị D số tiền 6.200.000VNĐ.

3. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 24/10/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 103/2018/HS-ST ngày 24/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:103/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;