TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 102/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 866/2023/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2023 về việc tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2024/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 142/2023/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị R, sinh năm 1987; địa chỉ: ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang, (có đơn xin xử vắng mặt).
Bị đơn: Ông Huỳnh Văn N, sinh năm 1979; địa chỉ: ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang, (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà trình bày: bà và ông Huỳnh Văn N chức lễ cưới từ năm 2002 và đăng ký kết hôn theo quy định vào ngày 05/8/2009 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh An Giang. Thời gian chung sống được khoảng cuối năm 2021 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng không còn chung sống với nhau khoảng 03 năm nay. Nhận thấy tình cảm không còn, nay bà R yêu cầu ly hôn với ông N.
- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Huỳnh Văn T.H, sinh ngày 18/5/2003 (đã thành niên, có khả năng lao động), không đề cập và cháu Huỳnh Văn T.A, sinh ngày 27/4/2015, hiện sống cùng ông N; Sau khi ly hôn bà R có ý kiến đồng ý để ông N tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T.A; bà R không phải cấp dưỡng nuôi con.
Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: Bản sao, Giấy khai sinh 02 con chung; Tờ tự khai và đơn khởi kiện ngày 29/8/2023; giấy chứng nhận kết hôn số 169 (bản chính);
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên hòa giải để động viên bà R, ông N xóa bỏ những bất đồng quan điểm, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bà R vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với ông N; ông N được triệu tập nhưng đều vắng mặt, không thể hiện thiện chí hàn gắn tình cảm với bà R. Vì vậy, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án theo quy định. Tại bản thông tin xác nhận nơi cư trú được đại diện Công an xã H, huyện C cung cấp xác nhận thông tin ông N vẫn còn đăng ký cư trú tại ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang.
Tại bản trình bày ý kiến, cháu Huỳnh Văn T.A, sinh ngày 27/4/2015 thể hiện nguyện vọng trường hợp cha mẹ ly hôn, cháu mong muốn được sống cùng cha.
Tại phiên tòa, bà R có đơn xin vắng, vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với ông N; về con chung bà R có ý kiến đồng ý để ông N tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T.A; bà R không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông N có mặt trình bày ý kiến không muốn ly hôn vì còn tình cảm với bà R, ông thừa nhận vợ chồng sống ly thân khoảng hơn 01 năm nay, cháu T.A sống cùng với ông, bà R đi làm xa chỉ thỉnh thoảng gọi hỏi thăm cháu 01 tháng/01 lần, hoàn toàn không liên lạc với ông. Trường hợp, Tòa án giải quyết cho ly hôn thì ông có nguyện vọng nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục cháu T.A; ông không yêu cầu bà R phải cấp dưỡng nuôi con.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và giải quyết vụ án như sau:
- Về tố tụng: Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Ý kiến giải quyết vụ án: bà R và ông N tổ chức lễ cưới từ năm 2002, đăng ký kết hôn theo quy định vào ngày 05/8/2009 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh An Giang. Thời gian đầu sống hạnh phúc đến cuối năm 2022 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, mục đích hôn nhân không đạt, không thể hàn gắn. Nhận thấy tình cảm không còn, nay bà R yêu cầu ly hôn với ông N.
Xét thấy, mâu thuẩn giữa bà R và ông N là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, mục đích hôn nhân không đạt, không thể hàn gắn. Bà R yêu cầu ly hôn, ông N không đồng ý nhưng mâu thuẩn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên bà R yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Có 02 con chung tên Huỳnh Văn T.H, sinh ngày 18/5/2003 (đã thành niên, có khả năng lao động nên không xem xét), Huỳnh Văn T.A, sinh ngày 27/4/2015. Hiện cháu T.A sống cùng ông N. Sau khi ly hôn, bà R đồng ý để ông N tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T.A; bà R không phải cấp dưỡng nuôi con.
Xét thấy, cháu T.A đã đủ tuổi để Tòa án ghi nhận ý kiến và cháu có nguyện vọng sống cùng với ông N, cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần. Vì vậy, cần ổn định cuộc sống của cháu T.A, tiếp tục giao cháu cho ông N chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà R không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không đề cập giải quyết.
Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình, đề xuất:
- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị R đối với ông Huỳnh Văn N.
- Ông Huỳnh Văn N được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Văn T.A, sinh ngày 27/4/2015. Bà Trần Thị R không phải cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Bà Trần Thị R khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Văn N, được xác định là tranh chấp“Ly hôn”quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[1.2] Về thẩm quyền: Bị đơn Huỳnh Văn N có nơi cư trú tại địa bàn huyện C, tỉnh An Giang. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện C, tỉnh An Giang theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
[2.1] Về tính hợp pháp: Bà R, ông N quen biết, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, tiến đến hôn nhân, không ai lừa dối hay ép buộc; có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật vào ngày 05/8/2009 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh An Giang thuộc trường hợp hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.
[2.2] Về tình trạng hôn nhân: Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2022 thì bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày thường xuyên cự cãi, không tìm được tiếng nói chung, phát sinh nhiều mâu thuẫn và ly thân cho đến nay; bà R yêu cầu ly hôn, ông N không đồng ý nhưng thừa nhận ông và bà R đã ly thân, không còn chung sống với nhau khoảng hơn 01 năm nay, bà Rớt đi làm xa, có gọi điện thoại về hỏi thăm cháu T.A nhưng thỉnh thoảng 01 tháng/lần, không liên lạc gì với ông. Bà R xác định không còn tình cảm với ông N và kiên quyết xin được ly hôn; Với những căn cứ trên, có cơ sở xác định hôn nhân giữa bà R, ông N phát sinh mâu thuẩn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu của bà R xin ly hôn với ông N theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về con chung: có 02 con chung tên Huỳnh Văn T.H, sinh ngày 18/5/2003 (đã thành niên, có khả năng lao động), không đề cập và Huỳnh Văn T.A, sinh ngày 27/4/2015, hiện sống cùng ông N; sau khi ly hôn bà R có ý kiến đồng ý để ông N tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T.A; bà R không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông N có ý kiến, trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì ông có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T.A, không yêu cầu bà R phải cấp dưỡng nuôi con.
Xét thấy, việc giao con cho cha hoặc mẹ chăm sóc nuôi dưỡng phải căn cứ vào điều kiện sinh sống, phát triển cũng như nguyện vọng của con. Từ khi bà R và ông N ly thân, cháu T.A sống với ông N vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Mặt khác, cháu T.A có nguyện vọng sống chung với cha. Để ổn định cho cuộc sống của cháu, nên để ông N tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu; bà R không không phải cấp dưỡng nuôi.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu, nên không đề cập;
[5] Về án phí: Bà R phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Ông N không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các Điều 144, 147, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị R. Cho bà Trần Thị R được ly hôn với ông Huỳnh Văn N.
Giấy chứng nhận kết hôn số 169, do Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh An Giang, cấp ngày 05 tháng 8 năm 2009 cho bà Trần Thị R với ông Huỳnh Văn N không còn giá trị pháp lý.
2. Về con chung: Ông Huỳnh Văn N được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Văn T.A, sinh ngày 27/4/2015 đến tuổi trưởng thành. Bà Trần Thị R không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Huỳnh Văn N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Trần Thị R trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Huỳnh Văn T.A, sinh ngày 27/4/2015.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
3. Về tài sản chung, nợ chung: không đề cập giải quyết.
4. Về án phí: Bà Trần Thị R phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, khấu trừ số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0014806 ngày 14 tháng 12 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang; bà Rớt đã nộp xong. Ông Huỳnh Văn N không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bà Trần Thị R, ông Huỳnh Văn N, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc được niêm yết bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 102/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 102/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về