Bản án 102/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 102/2020/HS-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường Nhà văn hóa xã Quỳnh Mỹ, huyện P, tỉnh Thái Bình xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 93/2020/TLST- HS, ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:102/2020/QĐXXST - HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Đỗ Văn D, sinh ngày 07/5/1978 tại thôn Đ, xã V, huyện P, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện P, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Đỗ Văn Đ và con bà Đinh Thị S (đều đã chết) có vợ Đỗ Thị T và có 03 con, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Bản án số 92/2013/HSST ngày 31/12/2013 của Tòa án nhân dân huyện P xử phạt 04 tháng tù về tội “Đánh bạc” ngày 20/01/2014 chấp hành xong hình phạt tù; tháng 11/2014 chấp hành xong án phí và hình phạt bổ sung.

Bị cáo D bị tạm giữ từ ngày 05/8/2020 đến ngày 08/8/2020 chuyển tạm giam đến nay. Bị cáo D đang bị tạm giamtại Nhà tạm giữ Công anhuyện P, tỉnh Thái Bình.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1969, Nơi cư trú: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình  

Người chứng kiến:

1. Bà Lại Thị Hồng L, sinh năm 1985

2. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1967

Đều cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện P,tỉnh Thái Bình (Có mặt bị cáo D, vắng mặt anh T bà L, ông H)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng11 giờ 15 phút ngày 05/8/2020, tại nhà ở của Đỗ Văn D thôn Đ, xã V, huyện P, Tổ công tác Công an huyện P phát hiện, bắt quả tang Đỗ Văn D đang có hành vi bán trái phép 02 gói ma túy cho Nguyễn Xuân Thành, sinh năm 1969, trú tại thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy. Trước sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương và chị Lại Thị Hồng L cùng ông Nguyễn Văn H. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, thu giữ tại túi áo ngực bên phảiThành đang mặc 02 gói giấy trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng dạng cục (niêm phong ký hiệu M1). Thành khai nhận đó là 02 gói Hêrôin T vừa mua của D với giá 200.000 đồng để sử dụng cho bản thân; thu giữ tại túi quần bên trái phía trước D đang mặc 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, D khai là tiền vừa bán 02 gói Hêrôin cho T mà có; thu giữ tại lòng bàn phải của D 01 hộp nhựa màu trắng có nắp màu xanh, bên trong có 50 (năm mươi) gói giấy trắng có dòng kẻ, chứa chất bột màu trắng dạng cục và 01 (một) túi nilon trong suốt có quấn dây cao su màu hồng, chứa chất bột màu trắng dạng cục (niêm phong ký hiệu M2). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý đồ vật tài liệu, niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bản kết luận giám định số 293/KLGĐ-PC09 ngày 06/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình kết luận:

“Vật chứng gửi đến giám định (M1) là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,0666 gam (không phẩy không nghìn sáu trăm sáu mươi sáu gam).

Vật chứng gửi đến giám định (M2) là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 6,7427 gam (sáu phẩy bảy nghìn bốn trăm hai mươi bảy gam) Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.” Bản cáo trạng số 97/CT- VKSQP ngày 29/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình truy tố Đỗ Văn D phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Trong phần tranh luận, vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Đỗ Văn D như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”Áp dụng điểm ikhoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1Điều 51;Điều 50và Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Văn D từ 08 năm tù đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ. Về hình phạt bổ sung: đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.0000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng và án phí: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo D trình bày: Do bản thânlà người nghiện chất ma túy. Buổi sáng ngày 05/8/2020, bị cáo đi bộ từ nhà đến khu vực bến xe khách Quỳnh Côi thuộc tổ 07, thị trấn Quỳnh Côi, huyện P mua của 01 người đàn ông không quen biết 02 túi Hêrôin đều được đựng trong túi nilon trong suốt có quấn dây cao su màu hồng với giá 5.000.000 đồng rồi mang về nhà, bị cáo dùng dao lam và giấy trắng có dòng kẻ có sẵn chia nhỏ 01 túi Hêrôin thành 52 gói nhỏ rồi cất cùng túi Hêrôin còn lại vào 01 hộp nhựa màu trắng có nắp màu xanh, đặt lên trên tủ giày của gia đình để bán kiếm lời. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, khi bị cáođang ở trước cửa nhà thì Nguyễn Xuân T, là người quen của bị cáo, đến nói: “Để cho anh hai quả”.Hiểu ý Thành muốn mua 02 gói Hêrôin nên bị cáo đi vào cầm hộp nhựa nêu trên ra sân, lấy trong hộp 02 gói Hêrôin bán cho T. T cầm 02 gói Hêrôin cho vào túi áo ngực bên phải đang mặc rồi đưa cho bị cáo 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng. bị cáo nhận tiền cho vào túi quần bên trái phía trước đang mặc thì Công an huyện P phát hiện, bắt quả tang.

Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện P, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của bị cáo D trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với lời trình bày của bị cáo tại phiên tòa và được chứng minh bằng:Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện P lập hồi 11 giờ 30 phút ngày 05/8/2020 tại nhà ở của Đỗ Văn Dtại thôn Đ, xã V, huyện P, tỉnh Thái Bình (Bút lục số: 01-04); Các biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện P lập ngày 05/8/2020 (Bút lục số: 06-08); Bản kết luận giám định số 293/KLGĐ-PC09 ngày 06/8/2020của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình (Bút lục số: 12);Bản tự khai và biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Xuân T và người chứng kiến là chị Lại Thị Hồng Lvà ông Nguyễn Văn H (Bút lục số: 63-72; 77- 81);

Nhƣ vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 05/8/2020, tại nhà ở của Đỗ Văn D tạithôn Đ, xã V, huyện P, tỉnh Thái Bình, bị cáo Đỗ Văn D đã có hành vi bán trái phép 0,0666 gam Hêrôin cho Nguyễn Xuân T , sinh năm 1969, trú tại thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy thu lợi bất chính số tiền 200.000 đồng, bị Công an huyện P phát hiện, bắt quả tang. Ngoài ra Đỗ Văn D còn tàng trữ trái phép trên người 6,7427 gam Hêrôin với mục đích để bán kiếm lời, bị Công an huyện P phát hiện, thu giữ. Tổng khối lượng Hêrôin Đỗ Văn D bán trái phép và tàng trữ trái phép để bán kiếm lời là 6,8093 gam (Sáu phẩy tám nghìn không trăm chín mươi ba gam).Hành vi nêu trên của bị cáo Đỗ Văn D đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

....

i) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

k) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

a) ;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” [3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi bánvà tàng trữ trái phép chất ma túycủa bị cáo Đỗ Văn D thực hiện là nguy hiểm cho xã hội và cho chính bản thân bị cáo, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm mất trật tự, trị an tại địa bàn nơi xảy ra vụ án.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:Bị cáo Dkhông phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo D được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo Đỗ Văn D có nhân thân xấu, đã 01 lần bị Tòa án kết án và là đối tượng nghiện ma túy.

[7] Về hình phạt chính:Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo D,cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo, tuyên truyền và phòng ngừa chung như mức hình phạt mà ông Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa là tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo D đã thực hiện.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo Đỗ Văn D tại phiên tòa, vớimục đích tàng trữ chất ma túy để bán kiếm lời nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo D.

[9] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực bến xe khách Quỳnh Côi, huyện P nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[10] Đối với Nguyễn Xuân Thành là người đã mua 0,0666 gam Hêrôin của D nhưng T chưa có tiền án, tiền sự về các hành vi liên quan đến ma túy, mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân, khối lượng ma túy không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện P đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính “Cảnh cáo” đối vớiThành là phù hợp với quy định của pháp luật.

[11]Về xử lý vật chứng:Đối với số ma túy còn lại sau giám định trong phong bì số 293/KLGĐ – PC09 ngày 06/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định gồm: 0,0461 gam (không phẩy không nghìn bốn trăm sáu mươi mốt gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Nguyễn Xuân T trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định M1, số 293/ KLGĐ ngày 06/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình và 6,6383 gam (sáu phẩy sáu nghìn ba trăm tám mươi ba gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Đỗ Văn D trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định M2, số 293/ KLGĐ ngày 06/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình. Cần tịch thu số tiền 200.000 đồng(Hai trăm nghìn đồng)để sung vào Ngân sách Nhà nước.

[12]Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đỗ Văn D phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo D, anh Thành có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

 2. Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

3. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn D 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 05 tháng 8 năm 2020).

Phạt tiền bị cáo Đỗ Văn D 7.000.000 đồng (Bẩy triệu đồng).

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, b khoản 2Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định gồm: 0,0461 gam (không phẩy không nghìn bốn trăm sáu mươi mốt gam)mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Nguyễn Xuân Thành trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định M1, số 293/ KLGĐ ngày 06/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình và 6,6383 gam (sáu phẩy sáu nghìn ba trăm tám mươi ba gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Đỗ Văn D trong hộp niêm phong hoàn trả mẫu vật giám định ghi (M2 vật chứng quản lý của Đỗ Văn D, SN 1978 thôn Đ, xã V, huyện P, tỉnh Thái Bình).Tịch thu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước, trong phong bì có niêm phong bên ngoài có ghi “Tiền vật chứng quản lý của Đỗ Văn D”(Vật chứng đang lưu tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thái Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/9/2020).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bịcáo Đỗ Văn Dphải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Bị cáoĐỗ Văn D có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18 tháng 11 năm 2020). Anh Nguyễn Xuân T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 102/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:102/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;