Bản án 102/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 102/2020/HS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 129/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

TRẦN VĂN T; sinh năm 1996 tại Bạc Liêu; Nơi đăng ký thường trú: ấp N, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Nguyễn Thị D; vợ, con: không có; tiền án: không; tiền sự : không; tạm giữ, tạm giam: 12/02/2020 (Có mặt)

- Bị hại: Anh Nguyễn Duy T2 – sinh năm 1982; địa chỉ cư trú : Đường X, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 12/02/2020, Trần Văn T điều khiển xe máy hiệu Yamaha Nouvo biển số: 54V5 – 6053 lưu thông trên đường Cộng Hòa, hướng từ Lăng Cha Cả về cầu vượt Hoàng Hoa Thám thì thấy anh Nguyễn Duy T đứng trên lề đường tại trước số 18 Cộng Hòa, Phường 4, quận Tân Bình sử dụng điện thoại nên T nảy sinh ý định cướp giật. T điều khiển xe vòng lại (lưu thông ngược chiều trên đường Cộng Hòa), áp sát dùng tay trái giật được điện thoại di động của anh T2 và tăng ga bỏ chạy về hướng cầu vượt Hoàng Hoa Thám. Ngay sau khi bị giật điện thoại, anh T2 với tay nắm được cản sau xe máy của T, anh T2 vừa chạy  vừa kéo xe lại khoảng 5 mét thì T bị mất thăng bằng té ngã xe, chiếc điện thoại di động mà T vừa giật được của anh T2 văng xuống đất. Ngay sau đó, anh T2 và người dân bắt giữ Trần Văn T cùng phương tiện gây án, vật chứng giao cho Công an Phường 4, quận Tân Bình xử lý.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Trần Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Kết quả xét nghiệm, Trần Văn T dương tính với ma túy tổng hợp.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu iPhone 7 Plus 128GB màu đỏ, Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 55/HĐĐGTS-TTHS ngày 31/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự điện thoại có giá trị là 7.500.000 đồng, đã thu hồi trả cho bị hại là anh Nguyễn Duy T2.

- 01 xe máy hiệu Yamaha Nouvo biển số 54V5-6053, số khung RLCN5P1109Y087818, số máy 5P11 – 087814 (phương tiện gây án). Trần Văn T khai nhận mua xe máy trên của một người tên P (không rõ lai lịch, địa chỉ) vào năm 2017 để làm phương tiện đi lại, hiện đã thất lạc giấy mua bán xe, còn giấy đăng ký xe thì T đã mang đi cầm cố trước khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản vào ngày 12/02/2020. Xác minh chị Đoàn Thị T3 đứng tên chủ sở hữu xe máy, chị T3 trình bày mua chiếc xe máy vào năm 2009 để làm phương tiện đi lại đến năm 2012, chị T3 đã bán lại chiếc xe trên cho một người tên T4 (không rõ lai lịch, địa chỉ) nhưng không làm giấy tờ mua bán, hiện chị T3 không biết người đang quản lý sử dụng chiếc xe và không có yêu cầu gì về chiếc xe này.

Kết luận giám định số 1210/KLGĐ-X(Đ4) ngày 31/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh về xe máy Yamaha Nouvo biển số 54V5 – 6053, số khung RLCN5P1109Y087818, số máy 5P11 – 087814: số khung, số máy không thay đổi. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã đăng báo tìm chủ sở hữu chiếc xe máy trên nhưng chưa có kết quả.

- Thu giữ của Trần Văn T: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 màu xanh, bị nứt màn hình và mặt lưng; 01 quần jean dài màu đen và 01 áo sơ mi dài tay có họa tiết hoa màu xanh đậm.

- 01 USB hiệu Kingmax 32GB màu nâu (chứa dữ liệu hình ảnh TRẦN VĂN T cướp giật điện thoại di động của anh Nguyễn Duy T2 tại trước số 18 Cộng Hòa, Phường 4, quận Tân Bình ngày 12/02/2020).

Anh Nguyễn Duy T2 trình bày bị trầy xướt bên ngoài da, vết thương không đáng kể nên anh T2 không yêu cầu bồi thường về thương tích. Anh T2 đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu bồi thường, không thắc mắc khiếu nại.

Tại bản cáo trạng số 116/CT-VKS-TB ngày 21 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

 Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát tại phần luận tội đã tóm tắt lại hành vi phạm tội của bị cáo, nêu ra các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nêu rõ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Duy T2 đã nhận lại tài sản không ý kiến, yêu cầu gì.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời bị cáo khai nhận, do thấy anh T2 sử dụng điện thoại bị cáo nảy sinh lòng tham đã thực hiện hành vi cướp giật điện thoại để kiếm tiền tiêu xài.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, bào chữa mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Trần Văn T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Văn T có hành vi điều khiển xe gắn máy áp sát rồi công khai giật điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus 128GB trị giá 7.500.000 đồng của anh Nguyễn Duy T2 đã phạm vào tội cướp giật tài sản, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

 Hành vi phạm tội của bị cáo là rất táo bạo, liều lĩnh ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác ngay trên đường phố nơi đông người và dùng thủ đoạn nguy hiểm là xe gắn máy phân khối lớn, là nguồn nguy hiểm cao độ làm phương tiện phạm tội, tiềm ẩn nguy cơ dễ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại và những người đang lưu thông trên đường. Xét về tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức hành vi cướp giật tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, chứng tỏ bị cáo có thái độ xem thường pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết: bị cáo chưa có tiền án tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về vật chứng vụ án:

- 01 quần jean dài màu đen và 01 áo sơ mi dài tay có họa tiết hoa màu xanh đậm là những vật không còn giá trị, bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- 01 xe máy hiệu Yamaha Nouvo biển số 54V5-6053, số khung RLCN5P1109Y087818, số máy 5P11 – 087814 bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, quá trình điều tra chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết giao cho Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng một thời gian nếu không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 màu xanh, bị nứt màn hình và mặt lưng là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 USB hiệu Kingmax 32GB màu nâu chứa dữ liệu hình ảnh bị cáo thực hiện hành vi cướp giật tài sản cần được lưu vào hồ sơ vụ án.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có ý kiến yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

 Căn cứ Điều 106, Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Luật phí, lệ phí năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo: TRẦN VĂN T 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam : 12/02/2020.

[2] Tịch thu tiêu huỷ : 01 quần jean dài màu đen và 01 áo sơ mi dài tay có họa tiết hoa màu xanh đậm.

- Giao chiếc xe máy hiệu Yamaha Nouvo biển số 54V5-6053, số khung RLCN5P1109Y087818, số máy 5P11 – 087814 cho Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sau 01 năm nếu không xác định được chủ sở hữu hợp pháp thì tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Trả cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 màu xanh, bị nứt màn hình và mặt lưng.

- Lưu hồ sơ vụ án 01 USB hiệu Kingmax 32GB màu nâu chứa dữ liệu hình ảnh bị cáo thực hiện hành vi cướp giật tài sản.

Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 84/PNK ngày 26/5/2020 của Công an quận Tân Bình.

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 102/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:102/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;