TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 102/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ H VÀ ANH K
Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 275/2020/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H sinh năm 1983
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K sinh năm 1978 Cùng nơi cư trú: Tổ dân phố số A, thị trấn B, huyện Q, tỉnh Thái Bình (Tại phiên tòa có mặt các đương sự)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/9/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn K tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trẩn B, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày 29/02/2004. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh K. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh K không thông cảm cho chị và nghi ngờ chị có quan hệ ngoại tình, có lần vợ chồng mâu thuẫn anh K đã đe dọa và đánh chị. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 02/2020 vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh K không còn, chị xin ly hôn anh K.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Thu M sinh ngày 11/10/2004 và Nguyễn Thị Minh T sinh ngày 23/12/2011. Ly hôn, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, chị không yêu cầu anh K cấp dưỡng cho con. Hiện tại chị không có thai nghén gì.
Hiện nay, chị làm công nhân gần nhà thu nhập khoảng từ 12.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng một tháng.
Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Văn K trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh xác định về thời gian, điều kiện hoàn cảnh kết hôn như chị H đã trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận đến tháng 8/2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, không tH yêu thông cảm cho nhau. Mâu thuãn căng thẳng vào tháng 02/2020 vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh không đồng ý ly hôn vì tình cảm vợ chồng giữa anh và chị H vẫn còn nhưng nếu chị H một mực xin ly hôn thì anh cũng pK đồng ý.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Thu M sinh ngày 11/10/2004 và Nguyễn Thị Minh T sinh ngày 23/12/2011. Ly hôn, anh nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con.
Hiện nay, anh làm thợ mộc, thu nhập khoảng trên 5.000.000 đồng một tháng. Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Kết quả xác minh với cơ sở tổ dân phố số 1, thị trấn B, huyện Quỳnh Phụ thấy: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn K là vợ chồng, quá trính chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể của vợ chồng cơ sở không biết. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh K cơ sở đề nghị Tòa án hòa giải đoàn tụ nếu hòa giải đoàn tụ không thành đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị H và anh K có 02 con chung là Nguyễn Thị Thu M sinh ngày 11/10/2004 và Nguyễn Thị Minh Tsinh ngày 23/12/2011. Nếu Tòa án giải quyết cho anh K và chị H ly hôn về nuôi con và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ở địa pH chị H làm công nhân, công ty ở gần nhà, còn anh K làm thợ mộc, mức thu nhập cụ thể của từng người cơ sở không biết rõ. Về tài sản chung cơ sở không biết rõ.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của các đương sự đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn K; giao con chung Nguyễn Thị Thu M sinh ngày 11/10/2004 cho anh Nguyễn Văn K trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Thị Minh Tsinh ngày 23/12/2011 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh K và chị H không pK cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền đi lại trông nom và giáo dục con chung; về tài sản: anh K và chị H đều không yêu cầu Tòa án giải quyết; chị H phải chịu cả tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H khởi kiện ly hôn, nuôi con chung với anh Nguyễn Văn K, do anh K là bị đơn cư trú tại Tổ dân phố số A, thị trấn B, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện Quỳnh Phụ, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn K xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình cấp đăng ký kết hôn số 12 ngày 29/02/2004 là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc hòa thuận đến tháng 8/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp nhau, không thông cảm cho nhau, thường xuyên xảy ra xô xát cãi vã, mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 02/2020 vợ chồng đã ly thân. Nay chị H có đơn xin ly hôn, anh K muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng anh K không đưa ra biện pháp nào có hiệu quả để hàn gắn, cải thiện quan hệ vợ chồng. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không có kết quả, mặt khác trong suốt quá trình giải quyết vụ án đến nay vợ chồng vẫn tiếp tục ly thân, không ai quan tâm đến ai, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh K đã trầm trọng, mục đích hôn không đạt được, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, vì vậy cần xử cho chị H được ly hôn anh K là phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn K có 02 con chung là Nguyễn Thị Thu M sinh ngày 11/10/2004 và Nguyễn Thị Minh T sinh ngày 23/12/2011. Ly hôn, chị H và anh K đều có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung và không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Xét thấy nguyện vọng nuôi con chung của anh chị là chính đáng, cả anh K và chị H đều có điều kiện nuôi con ngang nhau. Xét về nguyện vọng của con chung thấy, con Nguyễn Thị Thu M có nguyện vọng ở với cả bố và mẹ còn con Nguyễn Thị Minh Tcó nguyện vọng ở với mẹ, cả hai con chung đều giới tính nữ, cháu Nguyễn Thị Thu M lớn hơn còn cháu Nguyễn Thị Minh T nhỏ hơn cần được quan tâm chăm sóc của mẹ nhiều hơn nên cần giao con chung Nguyễn Thị Thu M cho anh Nguyễn Văn K trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Thị Minh Tcho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của con chung cũng phù hợp với Điều 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H pK chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[6] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn K có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:
1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn K.
2.Về nuôi con chung: Xử giao con chung Nguyễn Thị Thu M sinh ngày 11/10/2004 cho anh Nguyễn Văn K trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Thị Minh Tsinh ngày 23/12/2011 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H và anh K không pK cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3.Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn K không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4.Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu cả 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp theo biên lai thu số 0004566 ngày 12 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ được chuyển thành tiền án phí.
5.Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn K có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 102/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị H và anh K
Số hiệu: | 102/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về