Bản án 102/2019/HSST ngày 03/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 102/2019/HSST NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 106/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019 đối với:

* Bị cáo: Lưu Thế N; Sinh ngày 16 tháng 01 năm 1987 tại Thừa Thiên Huế; Nơi ĐKNKTT và cư trú: Tổ X, phường Y, quận K, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn V và bà Lê Thị X; có vợ là Hồ Thị Kim C và 02 con, con nhỏ nhất sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 12/6/2019 có mặt tại phiên tòa.

* Bị cáo: Võ Ngọc S; Sinh ngày 02 tháng 11 năm 1985 tại Quảng Nam; Nơi ĐKNKTT và cư trú: Tổ X, phường Y, quận K, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn:12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Ngọc A (chết) và bà Huỳnh Thị Kim L (còn sống); có vợ là Lê Thị Thúy B và 01 con sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: - Năm 2008 bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 20/2008/HSST ngày 28/8/2008.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 12/6/2019 có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Lê Thanh M - Địa chỉ: Tổ F, thô P, xã J, huyện D, tỉnh Quảng Nam.

2/ Công ty H; Địa chỉ: số Z đường R, quận G, thành phố Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 12/6/2019, Lưu Thế N đến trước số nhà 417 đường Nguyễn Tất Thành mua 01 gói ma túy hàng đá với giá 300.000đ của một người tên Q để sử dụng. N cất gói ma túy vào túi quần bên trái rồi đi ăn uống với bạn bè.

Đến 19 giờ 30 phút cùng ngày, N gọi điện thoại rủ Võ Ngọc S sử dụng ma túy thì S đồng ý. N đến kiệt 158 đường Trần Cao Vân, thành phố Đà Nẵng đưa cho S 500.000đ để S đi đến trước địa chỉ 439 đường Nguyễn Tất Thành, thành phố Đà Nẵng mua một gói ma túy hàng đá của một người tên O với giá 300.000đ. Sau khi mua ma túy, S quay về gặp N và cả hai đón xe taxi Tiên Sa mang biển kiểm soát 43A-W do anh Lê Thanh M điều khiển để tìm địa điểm sử dụng ma túy. Số tiền 200.000đ còn lại, S đã đưa lại cho N khi ngồi trên xe. Đến 21 giờ cùng ngày, khi taxi đến trước số nhà 36 đường Tôn Thất Đạm, phường Xuân Hà, quận Thanh Khê thì bị lực lượng 911 Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp với Công an phường Xuân Hà kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.

Thu giữ của Lưu Thế N: Trong túi quần bên trái 01 gói nylong kích thước 4 x 7cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong theo quy định, ký hiệu G; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có số sim 0937.179.835 và số tiền 2.190.000 đồng.

Thu giữ của Võ Ngọc S: Tại vị trí trên sàn xe giữa ghế ngồi và của bên phải phía sau có 01 gói thuốc lá hiệu Dunhill, bên trong có 01 ống thủy tinh và 01 gói nylong quấn bên ngoài bằng băng keo màu đỏ, kích thước 2 x 3,5 cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong theo quy định, ký hiệu G1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Microsoft màu đen, số sim không rõ.

Ngoài ra còn thu giữ 01 xe ôtô nhãn hiệu Toyota loại Vios màu vàng, biển kiểm soát 43A-212.97.

Kết quả thử nước tiểu, Lưu Thế N và Võ Ngọc S dương tính với ma túy.

Theo bản kết luận giám định số 164/GĐ-MT ngày 18/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: „Tinh thể màu trắng trong 02 gói nylong tại bì niêm phong ký hiệu G, G1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng tinh thể G: 0,248 gam; G1: 0,115 gam.

* Tại Bản cáo trạng số: 109/CT-VKS ngày 29/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê đã truy tố bị cáo Lưu Thế N và Võ Ngọc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt Lưu Thế N từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt Võ Ngọc S từ 15 tháng đến 21 tháng tù.

- Về xử lý tang vật: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để tuyên:

Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 164/GĐ-MT ngày 18/6/2019 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

Tịch thu sung công quỹ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có số sim 0937.179.835 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Microsoft màu đen, số sim không rõ.

Trả cho Lưu Thế N số tiền 2.190.000 đồng * Tại phiên tòa, bị cáo Lưu Thế N và Võ Ngọc S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận với phần luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời nói sau cùng:

- Bị cáo Lưu Thế N: Bị cáo xin lỗi gia đình, trong thời gian bị tạm giam bị cáo đã rất hối hận về hành vi của bản thân, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo được sớm về với gia đình.

- Bị cáo Võ Ngọc S: Bị cáo xin lỗi mẹ, xin lỗi vợ, mong gia đình tha thứ cho việc làm sai trái của bị cáo và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ để được sớm về với gia đình làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi phạm tội thì thấy: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Căn cứ vào biên bản phạm tội quả tang và các lời khai khác phù hợp với chứng cứ tài liệu điều tra thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định:

Vào lúc 21 giờ ngày 12/6/2019, tại trước số nhà 36 đường Tôn Thất Đạm thuộc phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; lực lượng 911 Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp Công an phường Xuân Hà bắt quả tang đối với Lưu Thế N có hành vi tàng trữ 0,363 gam ma túy loại Methamphetamine; Võ Ngọc S có hành vi tàng trữ 0,115 gam ma túy loại Methamphetamine.

Hành vi của Lưu Thế N và Võ Ngọc S đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê truy tố.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo thì thấy:

Lưu Thế N và Võ Ngọc S là những người trưởng thành, các bị cáo nhận thức rất rõ tác hại của ma túy nhưng vì đua đòi ăn chơi, các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy để thỏa mãn nhu cầu sử dụng cá nhân. Hành vi của các bị cáo không chỉ xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của nhà nước đối với chất gây nghiện, gây tổn hại đến sức khỏe và kinh tế mà còn ảnh hưởng đến trị an tại địa phương nên nhất thiết phải xử lý nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để các bị cáo có điều kiện cải tạo, cũng như phòng ngừa tội phạm.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo N và S đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, các bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét hình phạt cụ thể đối với từng bị cáo thấy rằng, tuy so với Lưu Thế N thì Võ Ngọc S có nhân thân xấu hơn (bị cáo đã từng bị Tòa án xử phạt tù cho hưởng án treo vào năm 2008) nhưng lượng ma túy mà N tàng trữ (0,363 gam) nhiều hơn gấp 3 lần so với lượng ma túy S tàng trữ (0,115 gam); mặt khác bị cáo N cũng là người khởi xướng, rủ rê bị cáo S cùng sử dụng ma túy nên cần xét xử Lưu Thế N mức hình phạt cao hơn so với Võ Ngọc S.

Xét nội dung đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh, điều khoản luật và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với các bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Tại phiên tòa Kiểm sát viên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp nên chấp nhận.

[5] Đối với các đối tượng tên Q, O đã có hành vi bán ma túy cho N và S hiện không rõ lai lịch địa chỉ nên không xem xét trong vụ án này.

Đối với anh Lê Thanh M là tài xế xe taxi đã có hành vi chở Lưu Thế N, Võ Ngọc S nhưng anh M không biết việc các bị cáo này đang tàng trữ ma túy trong người nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xem xét trách nhiệm của anh M là phù hợp.

[6] Khi bị bắt tạm giữ, qua xét nghiệm Lưu Thế N, Võ Ngọc S dương tính với ma túy nhưng hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của các bị cáo đã bị Công an quận Thanh Khê xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000đ là phù hợp nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7] Về tang vật thu giữ của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Đối với ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 164/GĐ-MT ngày 18/6/2019 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; một gói thuốc lá hiệu Dunhill; một ống thủy tinh không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số sim 0937.179.835; một điện thoại di động nhãn hiệu Microsoft màu đen không rõ số sim là phương tiện Lưu Thế N, Võ Ngọc S dùng liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ.

Đối với số tiền mặt 2.190.000đ là tài sản cá nhân của Lưu Thế N, không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần quy trữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

Đối với một xe ôtô hiệu Toyata loại Vios màu vàng biển kiểm soát 43A-W không liên quan đến tội phạm, đã được Cơ quan cảnh sát điều tra trả lại cho chủ sở hữu là Công ty H là phù hợp nên không xem xét.

[8] Về án phí: Lưu Thế N và Võ Ngọc S, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/. Tuyên bố: Bị cáo Lưu Thế N và Võ Ngọc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

 Xử phạt Lưu Thế N: 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù kể từ ngày 12/6/2019.

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

 Xử phạt Võ Ngọc S: 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù kể từ ngày 12/6/2019.

2./ Về xử lý tang vật: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên:

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số sim 0937.179.835; một điện thoại di động nhãn hiệu Microsoft màu đen không rõ số sim.

- Tịch thu tiêu hủy ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 164/GĐ-MT ngày 18/6/2019 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; một gói thuốc lá hiệu Dunhill; một ống thủy tinh.

- Trả cho Lưu Thế N số tiền 2.190.000đ (Hai triệu một trăm chín mươi ngàn đồng) nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/9/2019 và Biên lai thu tiền số 7223 ngày 03/9/2019).

3/. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội buộc Lưu Thế N, Võ Ngọc S mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4/. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 102/2019/HSST ngày 03/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:102/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;