TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 102/2017/HNGĐ-ST NGÀY 11/07/2017 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Ngày 11 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 82/2017/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2017 về việc tranh chấp “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số96/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Chị NGUYỄN THỊ KIM V, sinh năm 1989 (Có mặt) Địa chỉ: ấp L, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
2.Bị đơn: Anh NGUYỄN HỮU T, sinh năm 1984 (Vắng mặt)
Địa chỉ: ấp L, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 06/02/2017 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim V trình bày:
Do quen biết nên chị và anh T kết hôn vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tạiUỷ ban nhân dân xã M. Vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 02/2016 thì phát sinh mâu thuẫn do anh T không có trách nhiệm với vợ con, nói đi làm ăn rồi không về. Anh, chị chính thức ly thân từ đó đến nay. Nay chị yêu cầu được ly hôn anh T.
Con chung có hai cháu tên Nguyễn Thanh T, sinh ngày 14/11/2009, Nguyễn Vân Gia M, sinh ngày 17/4/2012, hiện đang sống với chị. Nay chị yêu cầu được nuôi hai cháu, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật.
Tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Hữu T đã được Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải kèm giấy triệu tập theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự liên quan việc chị V xin ly hôn với anh, yêu cầu được nuôi con chung, yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con theo quy định, tài sản chung và nợ chung không có nhưng anh T vẫn không có văn bản nêu ý kiến và cố tình vắng mặt không rõ lý do.
Tại phiên toà, chị V vẫn giữ nguyên yêu cầu như trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Hữu T vắng mặt không rõ lý do mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh T.
Về nội dung:
[2] Về quan hệ hôn nhân: Tại phiên toà, chị V trình bày do quen biết nên chị và anh T xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã M. Sau khi cưới anh, chị sống hạnh phúc đến tháng 02/2016 thì phát sinh mâu thuẫn và chính thức ly thân từ đó đến nay. Nguyên nhân do anh T thiếu trách nhiệm với vợ con, nói đi làm ăn kiếm tiền lo cho gia đình rồi không về. Nay chị V cương quyết xin ly hôn với anh T. Anh T thì vắng mặt không rõ lý do. Xét thấy, cho chị V được ly hôn với anh T là có cơ sở. Bởi lẽ, mâu thuẫn vợ chồng của anh chị đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Quá trình thụ lý vụ án, Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự cho anh T để đảm bảo quyền nêu ý kiến của anh, cũng như hoà giải để anh chị hàn gắn, đoàn tụ nhưng anh T vẫn không có văn bản trình bày ý kiến và vắng mặt không lý do. Chứng tỏ, anh cố tình từ bỏ quyền phản đối, quyền chứng minh của mình và thể hiện anh không còn quan tâm đến cuộc sống hôn nhân của vợ chồng, nên không có biện pháp nào để hàn gắn, đoàn tụ được. Từ đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị V là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Có hai cháu tên Nguyễn Thanh T, sinh ngày 14/11/2009, Nguyễn Vân Gia M, sinh ngày 17/4/2012, hiện đang sống với chị V. Xét thấy, tiếp tục giao hai cháu cho chị V nuôi là có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ, trước giờ cháu T, cháu M đã sống với ổn định với chị V do đó để tránh xáo trộn về mặt tâm sinh lý, đời sống học tập, sinh hoạt của hai cháu và bản thân cháu T cũng mong muốn được sống với mẹ. Bên cạnh đó, căn cứ vào văn bản ý kiến xác nhận của đại diện địa phương mà đương sự cung cấp cho rằng chị V đang nuôi hai con nhỏ rất tốt. Cho nên, tiếp tụcgiao hai con chung cho chị V nuôi là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về cấp dưỡng: Tại phiên toà, chị V có yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi hai con chung hàng tháng, mức cấp dưỡng theo quy định pháp luật. Xét thấy, yêu cầu của chị là có cơ sở, phù hợp với Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận. [5] Về tài sản chung và nợ chung: Theo chị V trình bày là không có nên khôngđặt ra xem xét, giải quyết.
[6] Về án phí: Chị V phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và anhT phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 107, Điều 116, Điều 117 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị NguyễnThị Kim V. Cho chị Nguyễn Thị Kim V được ly hôn anh Nguyễn Hữu T.
Về con chung: Tiếp tục giao hai cháu Nguyễn Thanh T, sinh ngày 14/11/2009, Nguyễn Vân Gia M, sinh ngày 17/4/2012 cho chị V nuôi. Anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung số tiền 650.000đ/tháng/01cháu (tức là 1.300.000đ/tháng/02 cháu). Thời gian thực hiện ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung trưởng thành (tròn 18 tuổi).
Sau khi ly hôn, anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cảntrở.
Kể từ ngày chị Nguyễn Thị Kim V có đơn yêu cầu thi hành án nếu anh NguyễnHữu T chậm thi hành đối với phần tiền cấp dưỡng thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân giađình sơ thẩm. Chị đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 06375 ngày16/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C nên xem như thi hành xong.Anh Nguyễn Hữu T phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng.
Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt thời hạn nêu trên được tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 102/2017/HNGĐ-ST ngày 11/07/2017 về tranh chấp xin ly hôn
Số hiệu: | 102/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/07/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về