TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 10/2024/HS-PT NGÀY 25/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 14/2024/TLHS-PT ngày 22 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo Nguyễn Phi H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2024/HS-ST ngày 03/01/2024 của Toà án nhân dân huyện S, tỉnh H.
Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng nghị:
Nguyễn Phi H, sinh ngày: 07/07/1989, tại: M, H Nơi cư trú: Thôn A, xã An Tiến, huyện M, thành phố H nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu M và bà Trần Thị Thảo; có vợ Đinh Thị Thanh Th và 03 con; Tiền án, tiền sự: Không Bị tạm giam từ ngày 24/5/2023 đến ngày 10/7/2023, Hiện đang áp dụng biện pháp Bảo lĩnh – “Có mặt” (Ngoài ra còn có bị cáo Nguyễn Quang T, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo Tòa án không triệu tập)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ 00 ngày 17/3/2023, Nguyễn Phi H, điều khiển xe mô tô BKS: 29Y1-xxxxx để đi mua đồ cá nhân. Trên đường đi, H có thấy Dương Hoàng M đang điều khiển xe ôtô BKS: 29H-xxxxx chở than vào lò gạch M thuộc thôn Gò Mu, xã Thanh Cao, huyện S, tỉnh H. Do cuối năm 2021, Dương Hoàng M có vay 8.000.000đ (tám triệu đồng) của H chưa trả nên H có đi theo xe của M mục đích để đòi Dương Hoàng M trả nợ. H đỗ xe ở ngoài đường đợi, trong lúc này H sử dụng điện thoại gọi điện cho Nguyễn Quang T (là anh họ H) để nhờ Tr đến đòi giúp số tiền anh M nợ H và Tr đồng ý. Sau đó Tr gọi điện thoại thuê xe tắc xi của anh Nguyễn Đức L. Khi xe của anh L đến thì Tr vào bếp cầm 01 (một) thanh sắt dạng hộp vuông cạnh khoảng 2cm, vỏ ngoài màu trắng, dài khoảng 1m và lên xe taxi đi đến chỗ H hẹn.
H chờ M đổ hàng xong thì dùng xe máy BKS: 29Y1-xxxxx đi tới chặn trước đầu xe ôtô của M và vẫy M xuống xe để hỏi, nói chuyện về việc M chưa trả số tiền 8.000.000đ (Tám triệu đồng) của H và 1.000.000đ của bạn H. H nói: “Xem trả nợ anh đi, nợ lâu rồi, anh gọi mày không nghe máy cũng không trả tiền”. Lúc đó, M nói chưa có tiền để trả rồi hai bên nói chuyện với nhau một lúc. Được khoảng 20 phút sau thì có xe ô tô của L chở T, G, Th đi đến khu vực đường đất bên cạnh nhà máy gạch M thuộc thôn Gò Mu, xã Thanh Cao, huyện S, tỉnh H. Đến nơi, thấy H và M đang đứng nói chuyện thì Tr xuống xe lao vào chửi M: “Địt mẹ! sao nợ không trả?” và cầm gậy bằng kim loại mang theo đập 01 (một) cái trúng vào tay trái của M làm chảy máu. Thấy vậy H, Gi, Th chạy vào can ngăn T không đánh H nữa. Còn L sau khi chở khách đến thì điều khiển xe lên khu vực trước cổng chính nhà máy gạch M để đỗ xe. Sau khi bị đánh, M bỏ chạy vào phía trong Nhà máy gạch M, lúc sau, M quay ra thì H tiếp tục bắt M phải trả tiền. Lúc này T đi cùng Th, G ra trước cổng nhà máy gạch ngồi chờ mục đích để đợi M phải trả tiền cho H. Khoảng 10 phút sau, M vì lo sợ do vừa bị đánh và thấy nhóm H đông người nên phải đi vay tiền để trả H. M hỏi vay tiền của anh Dương Đức M, anh Nguyễn Văn TH được tổng 4.000.000 (bốn triệu đồng), M nói với H rằng trả trước 4.000.000đ (bốn triệu đồng) nhưng H không đồng ý và bảo M phải trả đủ số tiền là 8.000.000đ (tám triệu đồng). Sau đấy M có gọi điện cho anh Hồ Văn H1 nhờ H1 xuống nói chuyện và nhận nợ giúp M. H đồng ý và đi xe ô tô con đến. Khi H1 đến đã hỏi H về chuyện nợ nần và nhận nợ hộ M nhưng H không nghe, tiếp tục ép M phải trả đủ tiền nợ. Sau đó, M nói với H đi vào trong khu vực nhà hành chính của nhà máy gạch Thanh Lương để vay thêm tiền trả H. Đợi một lúc không thấy M trả tiền thì H cũng bỏ ra về.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 80/KLTTCT-TTPY ngày 31/3/2023 của T tâm pháp y tỉnh H đối với thương tích của Dương Hoàng M kết luận: Vết thương 1/3 giữa cẳng tay trái đang liền sẹo. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Dương Hoàng M tại thời điểm giám định là 01% (Một phần trăm).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2024/HSST ngày 03/01/2024 của Toà án nhân dân huyện S, tỉnh H đã xét xử quyết định:
Tuyên bố: Nguyễn Quang T, Nguyễn Phi H phạm tội “Cướp tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều Điều 17, Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Phi H 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tự nguyện thi hành án hoặc bắt thi hành án, được trừ đi thời hạn đã bắt tạm giam từ ngày 24/05/2023 đến ngày 10/7/2023.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Quang T, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 11 tháng 01 năm 2024, bị cáo Nguyễn Phi H kháng cáo xin hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Phi H giữ nguyên nội dung kháng cáo xin hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Bị cáo kháng cáo trong thời hạn luật định nên được chấp nhận.
Đối với kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Phi H:
Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo 36 tháng tù là đúng quy định. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm tài liệu mới gồm: Xác nhận của chính quyền địa phương bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, vợ không có công việc ổn định hiện nuôi 03 con nhỏ, trong đó có 01 con mới mổ đẻ tháng 8/2023; có ông nội tham gia kháng chiến được tặng thưởng nhiều huân, huy chương, có Bác ruột tham gia kháng chiến và đã bị hy sinh (Liệt sỹ). Là gia đình chính sách,có công với cách mạng, có công với tổ quốc. Đây là những tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS cần được áp dụng cho bị cáo. Do vậy, kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo là có căn cứ.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật hình sự. Chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Phi H. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 01/2024/HS-ST, ngày 03/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh H theo hướng:
Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm s,b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS xử phạt 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, 60 tháng thử thách.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Sau khi xét xử sơ thẩm và trong thời hạn luật định bị cáo có kháng cáo hợp lệ, được chấp nhận.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa sơ thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể:
Với mục đích đòi nợ của anh Dương Hoàng M. Ngày 17/3/2023 khi thấy anh Dương Hoàng M đi vào nhà máy gạch M thuộc thôn Gò Mu, xã Thanh Cao, huyện S, tỉnh H, Nguyễn Phi H gọi điện thoại cho Nguyễn Quang Tr, để nhờ Tr đến đòi giúp số tiền anh M nợ H và T đồng ý. H chờ M đổ hàng xong thì dùng xe máy BKS: 29Y1-xxxxx đi tới chặn trước đầu xe ôtô của M và vẫy M xuống xe để hỏi, nói chuyện về việc M chưa trả số tiền 8.000.000đ (Tám triệu đồng) của H và 1.000.000đ (Một triệu đồng) của bạn H. Khoảng hơn 12 giờ T đến nơi đã có hành vi dùng gậy dạng hộp bằng kim loại đánh vào tay trái của anh M, gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 1% (một phần trăm), mục đích để buộc anh M phải trả tiền cho H. M bỏ chạy, khi quay ra thì H tiếp tục bắt anh M phải trả tiền, khiến anh M lâm vào tình trạng sợ hãi mà tin rằng nếu không trả tiền cho H thì H và Tr sẽ chặn xe ô tô không cho đi về nên buộc anh M phải đi vay tiền của nhiều người để trả cho H, khi vay không đủ tiền, anh M nhờ người đến nhận nợ hộ nhưng H vẫn không đồng ý mà ép anh M phải trả đủ số tiền nợ.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo Tr, bị hại, người làm chứng, vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Tòa án nhân dân huyện S xét xử bị cáo Nguyễn Phi H về tội: Cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Phi H Hội đồng xét xử nhận thấy: Sau khi phạm tội bị cáo bị cáo đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho hai bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để xử phạt bị cáo 36 tháng tù là có căn cứ. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm các tài liệu: Xác nhận của chính quyền địa phương bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, vợ không có công việc ổn định hiện nuôi 03 con nhỏ, trong đó có 01 con mới mổ đẻ tháng 8/2023; có ông nội tham gia kháng chiến được tặng thưởng nhiều huân, huy chương, có Bác ruột tham gia kháng chiến và đã bị hy sinh (Liệt sỹ). Là gia đình chính sách,có công với cách mạng, có công với tổ quốc, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới.
Xét thấy bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 51 BLHS, tại giai đoạn cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ mới; Đặc biệt bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, luôn chấp hành tốt mọi chính sách pháp luật của địa phương, có khả năng tự cải tạo. Việc cho bị cáo hưởng án treo không gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự xã hội; Không vi phạm Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo nên cần chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
[4]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Phi H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Phi H.
Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2024/HS-ST ngày 03/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện S tỉnh H. Giữ nguyên mức hình phạt tù, cải biện pháp chấp hành hình phạt cho bị cáo Nguyễn Phi H, cụ thể:
Về tội danh: Bị cáo Nguyễn Phi H phạm tội "Cướp tài sản".
Áp dụng: Khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 38, Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Phi H 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Phi H cho Ủy ban nhân dân xã An Tiến, huyện M, thành phố H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo Nguyễn Phi H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định pháp luật Luật thi hành án hình sự. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo nếu cố ý vi phạm nghĩa vụ từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì toà án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo qui định tại điều 56 của Bộ luật hình sự.
2. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Phi H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (25/3/2024).
Bản án 10/2024/HS-PT về tội cướp tài sản
Số hiệu: | 10/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về