Bản án 10/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 10/2024/HNGĐ-ST NGÀY 16/04/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 16 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân quận K, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 92/2023/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2023 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2024/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị N, sinh năm 1997; ĐKHKTT: Tổ V, phường T, quận K, thành phố H; Nơi ở hiện tại: Tổ K, phường T, quận K, thành phố H. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Đức H, sinh năm 1994; ĐKHKTT: Tổ V, phường T, quận K, thành phố H; Nơi ở hiện tại: Tổ K, phường T, quận K, thành phố H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Vũ Thị N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Năm 2016, chị và anh Phạm Đức H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn ngày 17/8/2016 tại Ủy ban nhân dân phường T, quận K, thành phố H. Sau khi kết hôn, chị chuyển khẩu về gia đình anh H sinh sống. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do hai bên bất đồng quan điểm sống, anh H có quan hệ với người phụ nữ khác, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra bất hòa. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình tham gia hòa giải nhưng không thành mà ngày càng trầm trọng. Từ năm 2022 đến nay, vợ chồng sống ly thân, mỗi người một nơi, không quan tâm đến nhau, cuộc sống và kinh tế riêng biệt. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Chị và anh H có một con chung tên là Phạm Đức Hoàng T, sinh ngày 19/4/2018. Ly hôn, chị đề nghị Toà án giao con chung cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con chị và anh H tự giao nhận cho nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Phạm Đức H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh công nhận lời trình bày của chị N về quan hệ hôn nhân như trên là đúng. Quá trình chung sống vợ chồng có nảy sinh mâu thuẫn từ năm 2022 và đã sống ly thân. Nay chị N nộp đơn xin ly hôn, anh không đồng ý ly hôn vì anh vẫn còn tình cảm với chị N. Tuy nhiên, chị N vẫn kiên quyết xin ly hôn thì chị N cứ giải quyết. Anh chỉ đến Toà án làm việc và trình bày ý kiến một lần duy nhất.

- Về con chung: Anh công nhận anh và chị N có một con chung như chị N trình bày là đúng. Anh trực tiếp nuôi con từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay. Nếu phải ly hôn thì anh đề nghị Toà án giao con chung cho anh tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chung anh không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 203, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử, xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị N được ly hôn anh Phạm Đức H.

Về con chung: Chị Vũ Thị N và anh Phạm Đức H có một con chung là Phạm Đức Hoàng T, sinh ngày 19/4/2018. Giao con chung cho anh Phạm Đức H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Vũ Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng dân sự:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại thời điểm thụ lý, bị đơn là anh Phạm Đức H có nơi cư trú tại tổ K, phường T, quận K, thành phố H nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận K, thành phố H.

[2]. Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Vũ Thị N vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn anh Phạm Đức H đã được tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai, không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[3]. Quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị N và anh Phạm Đức H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 17/8/2016 tại Ủy ban nhân dân phường T, quận K, thành phố H. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị N và anh Phạm Đức H là hôn nhân hợp pháp theo khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu xác minh, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình chung sống vợ chồng chị N, anh H hoà thuận đến năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn do anh chị bất đồng quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường hay xảy ra va chạm. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình tham gia hoà giải nhưng không đạt kết quả mà ngày càng trầm trọng. Từ năm 2022 đến nay, anh chị sống ly thân, mỗi người một nơi, không quan tâm đến nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên tòa hai lần nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, chứng tỏ anh H không muốn níu kéo hôn nhân với chị N. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng chị N và anh H đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị N xin ly hôn với anh Phạm Đức H.

[5]. Về con chung: Chị Vũ Thị N và anh Phạm Đức H có một con chung tên là Phạm Đức Hoàng T, sinh ngày 19/4/2018. Việc giao con cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, anh H trực tiếp nuôi con từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, việc nuôi con ổn định và được đảm bảo tốt về mọi mặt. Ly hôn, chị N đề nghị Toà án giao con chung cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu phải ly hôn, anh H đề nghị Toà án giao con chung cho anh tiếp tục duôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con anh H không yêu cầu Toà án giải quyết. Vì vậy, cần giao cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với điều kiện thực tế và phù hợp với quy định tại các điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N: Giao con chung tên là Phạm Đức Hoàng T, sinh ngày 19/4/2018 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị N và anh H không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về tài sản chung: Chị N và anh H không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7]. Về án phí: Chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 203, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, các điều 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị N và anh Phạm Đức H.

2. Về con chung: Chị Vũ Thị N và anh Phạm Đức H có một con chung tên là Phạm Đức Hoàng T, sinh ngày 19/4/2018. Giao con chung cho anh Phạm Đức H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị N và anh Phạm Đức H không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Chị Vũ Thị N và anh Phạm Đức H không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Vũ Thị N phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm và được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004755 ngày 12/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố H.

Chị Vũ Thị N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị N, anh Phạm Đức H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:10/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;