Bản án 10/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 10/2024/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 14 tháng 3 năm 2024, tại Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 208/2023/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 10 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 02 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2024/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ánh N, sinh năm 1992 – có mặt Địa chỉ: Tổ dân phố A, phường B, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk

Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu C, sinh năm 1977 - vắng mặt Địa chỉ: Tổ dân phố X, phường B, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ánh N trình bày có nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ánh N và ông Nguyễn Hữu C là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại UBND xã T, huyện K (Nay là phường B, thị xã B) vào ngày 27/4/2011. Bà Nguyễn Thị Ánh N và ông Nguyễn Hữu C mâu thuẫn cãi nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm do làm ăn thua lỗ. Vì vậy từ năm 2019 vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay. Bà Nguyễn Thị Ánh N về nhà mẹ đẻ sinh sống, còn ông C vẫn cư trú, sinh sống tại số S đường C, tổ dân phố X, phường B. Bà Nguyễn Thị Ánh N thấy vợ chồng không còn tình cảm, nên làm đơn yêu cầu được ly hôn với ông C.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Bảo L, sinh ngày 16/4/2012; cháu Nguyễn Bảo H, sinh ngày 17/4/2014. Cháu Nguyễn Bảo L, từ nhỏ sinh non nên bị khuyết tật bẩm sinh, có thể nói chuyện, nhận thức bình thường nhưng tay, chân bị teo không đi lại được, là người khuyết tật hàng tháng có được nhận trợ cấp xã hội tại UBND phường B. Khi ly hôn bà Nguyễn Thị Ánh N có nguyện vọng nuôi hai con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị Ánh N xin thay đổi so với đơn khởi kiện về cấp dưỡng, do điều kiện kinh tế của ông C cũng khó khăn, mặt khác ông C phải nuôi mẹ già bị bệnh tai biến. Do đó, bà Nguyễn Thị Ánh N không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và công nợ: Bà Nguyễn Thị Ánh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Nguyễn Hữu C mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng đều vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành giải quyết và xét xử vắng mặt ông Nguyễn Hữu C theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án tại phiên tòa đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và các quy định của pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị Ánh N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về khởi kiện và thụ lý vụ án: Ngày 22-8-2023 nguyên đơn nộp đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo; ngày 29-9-2023, Toà án Thông báo nộp tạm ứng án phí; cùng ngày nguyên đơn nộp tạm ứng án phí. Tòa án thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 191 và Điều 195 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật về “Ly hôn, tranh chấp về con chung” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn ông Nguyễn Hữu C vắng mặt đến lần thứ hai. Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

[4] Về yêu cầu của đương sự:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Ánh N và ông Nguyễn Hữu C là quan hệ hôn nhân hợp pháp, vợ chồng đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình chung sống bà Nguyễn Thị Ánh N xác định vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, không cùng chung quan điểm về làm kinh tế, trong sinh hoạt hàng ngày thường xuyên bất đồng và vợ chồng đã sống ly thân từ 2019 đến nay.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương về tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Ánh N và ông Nguyễn Hữu C thì địa phương cung cấp quá trình sống tại địa phương giữa bà Nguyễn Thị Ánh N và ông Nguyễn Hữu C khi phát sinh mâu thuẫn không ai trình báo với chính quyền địa phương nên chính quyền địa phương không nắm được, nhưng bà Nguyễn Thị Ánh N và ông Nguyễn Hữu C đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay.

Hội đồng xét xử xét thấy giữa bà Nguyễn Thị Ánh N và ông Nguyễn Hữu C đã vi phạm đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cho bà Nguyễn Thị Ánh N ly hôn ông Nguyễn Hữu C là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4.2] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Bảo L, sinh ngày 16/4/2012; cháu Nguyễn Bảo H, sinh ngày 17/4/2014. Cháu Nguyễn Bảo L bị khuyết tật bẩm sinh, hàng tháng được nhận trợ cấp xã hội của địa phương. Khi ly hôn bà Nguyễn Thị Ánh N có nguyện vọng nuôi hai con chung. HĐXX thấy rằng từ khi bà Nguyễn Thị Ánh N và ông Nguyễn Hữu C ly thân cho đến thời điểm hiện tại thì hai con chung sống cùng với mẹ và đều có nguyện vọng ở với bà Nguyễn Thị Ánh N, mặt khác cháu Nguyễn Bảo L bị khuyết tật bẩm sinh nên cần sự chăm sóc của mẹ, còn ông C đang phải chăm sóc mẹ già bị bệnh tai biến. Để đảm bảo quyền lợi ích và phát triển tâm sinh lý bình thường hai con chung, nên HĐXX xét thấy cần chấp nhận nguyện vọng của bà Nguyễn Thị Ánh N là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị Ánh N không yêu cầu Toà án giải quyết, nên HĐXX không đề cập.

[4.3] Về tài sản chung và công nợ: Bà Nguyễn Thị Ánh N không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đề cập.

[5] Về án phí: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ánh N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Bị đơn ông Nguyễn Hữu C không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 266; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ánh N được ly hôn với ông Nguyễn Hữu C.

2. Về con chung: Giao hai con chung là cháu Nguyễn Bảo L, sinh ngày 16/4/2012; cháu Nguyễn Bảo H, sinh ngày 17/4/2014 cho bà Nguyễn Thị Ánh N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Ông Nguyễn Hữu C có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng, tài sản chung và công nợ chung: Bà Nguyễn Thị Ánh N không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đề cập xem xét.

Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ánh N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2021/0018725 ngày 29-9-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B.

Bị đơn ông Nguyễn Hữu C không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:10/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;