TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 10/2024/DS-ST NGÀY 23/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỤI, HỌ
Vào ngày 23 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 249/2023/TLST- DS ngày 27/11/2023 về việc “Tranh chấp hụi, họ” giữa:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L , sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn 3, xã Lộc T , huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh Bùi Công T , sinh năm 2000; địa chỉ: Thôn 8, xã Lộc N , huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
- Bị đơn: Bà Phan Thị T , sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn 9, xã Lộc T , huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
(Anh T có đơn vắng mặt, bà T vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 25/10/2023, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền nguyên đơn trình bày:
Bà L là chủ dây huê (còn gọi là Hụi) ngày, loại huê 500.000đ/chân, có 45 chân huê tương đương với thời gian là 45 ngày, mỗi ngày khui huê một lần, ngày đầu tiên do Bà L làm chủ hốt (còn gọi là áp thảo). Bà T là thành viên trong dây huê này và tham gia chơi 05 chân huê. Ngày 07/5/2023, bà T hốt toàn bộ 05 chân huê này với số tiền đã hốt là 102.650.000đ. Theo thoả thuận của việc chơi huê thì sau khi hốt huê, mỗi ngày bà T phải đóng cho Bà L số tiên là 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm ngàn đồng) liên tục trong 45 ngày, kể từ ngày kế tiếp của ngày hột huê (08/5/2023-21/6/2023). Tuy nhiên bà T mới đóng cho Bà L được 25 ngày (từ 08/5/2023 đên 01/6/2023), còn 20 ngày thì đến nay bà T vẫn không đóng . Do đó, Bà L yêu cầu bà T có trách nhiệm đóng hết số tiền huê của 20 ngày chưa đóng là 50.000.000đ và buộc bà T phải trả lãi cho số tiến huê chưa đóng nói trên từ ngày 22/6/2023 đến nay tạm tính là 04 tháng, lãi suật 1,66%: 50.000.000₫ x 1,66% x 04 là 3.320.000đ và tiếp tục đóng lãi cho đến khi giải quyết xong vụ án.
Ngày 22/02/2024, Anh T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt giữ nguyên yêu cầu buộc bà T có nghĩa vụ thanh toán cho Bà L 50.000.000đ và rút toàn bộ yêu cầu về lãi, không yêu cầu bà T có nghĩa vụ chịu lãi nữa.
Để chứng minh yêu cầu khởi kiện của bà T là có căn cứ Anh T giao nộp bản gốc 01 tờ giấy kẻ ngang hiệu Hải Tiến có ghi nội dung bà T hốt 44 chân sống thành tiền là 102.650.000đ và ghi em Thư đã nhận tiền, ký tên Phan Thị T ; 01 bản gốc thỏa thuận chơi huê (chưa giao….) Bị đơn bà T được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc nên không có tình bày nào về toàn bộ nội dung khởi kiện của Bà L .
Tại Công văn số 07A/CV-VKS-Ds ngày 29/01/2024 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng không tham gia phiên tòa do vụ án không thuộc trường hợp tiến hành thu thập chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự và không phải tranh chấp quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, tại công văn số 10/YC-VKS-Ds ngày 20/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm yêu cầu Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ gồm: Yêu cầu nguyên đơn cung cấp văn bản thỏa thuận chơi huê, danh sách chơi huê; lấy lời khai của đương sự để làm rõ số tiền bà T hốt ngày 07/5/2023 là hốt cả 05 chân huê trong một dây huê hay 05 dây huê.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng: Bà L khởi kiện bà T về việc tranh chấp về hụi theo giấy hốt huê ngày 07/5/2023, bà T cư trú tại Thôn 9, xã Lộc T , huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp hụi, họ” và thụ lý, giải quyết là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh T vắng mặt có đơn, bà T vắng mặt lần thứ 2 không có lý do nên căn cứ khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt.
2. Về nội dung:
[1] Đối với yêu cầu thanh toán tiền huê chưa đóng 50.000.000đ: Giấy hốt huê ngày 07/5/2023 có nội dung thể hiện bà T có hốt 05 chân huê của dây huê ngày có 45 chân; theo giấy hốt này thì tại thời điểm hốt dây huê có 44 chân huê sống, trừ đi tiền công (còn gọi là huê hồng) của người chủ huê thì bà T đã hốt được số tiền 102.650.000đ là hoàn toàn phù hợp lời trình bày của Bà L . Theo tập quán chơi huê thì sau khi hốt chân huê thì chân huê đó được gọi là chân huê chết, người hốt huê có nghĩa vụ tiếp tục đóng tiền chơi huê đúng với số tiền của một chân huê chết cho đến hết dây huê. Tuy nhiên, theo Bà L trình bày thì sau khi hốt huê bà T đã đóng được 25 ngày từ ngày 08/5/2023 đến ngày 01/6/2023; bà T còn phải đóng 20 ngày nữa nhưng không đóng. Mặt dù, Bà L không cung cấp được văn bản thỏa thuận và danh sách chơi huê này nhưng căn cứ nội dung giấy hốt huê và trình bày của Bà L thì tại thời điểm hốt huê bà T hốt cả 05 chân trong tổng 44 chân sống với số tiền 102.650.000đ. Do đó, kể từ ngày 08/5/2023 bà T có nghĩa vụ đóng mỗi ngày 2.500.000đ cho Bà L , đóng trong 45 ngày. Do bà T không đến Tòa án làm việc, không có bản trình bày cũng như chứng cứ nào thể hiện đã đóng cho Bà L số tiền huê còn lại sau khi hốt huê là bao nhiêu hay đã đóng xong rồi nên Hội đồng xét xử căn cứ vào lời trình bày của Bà L và giấy hốt huê ngày 07/5/2023 để làm căn cứ buộc bà T có nghĩa vụ thanh toán cho Bà L số tiền huê chưa đóng trong 20 ngày còn lại là 50.000.000đ.
[2] Đối với yêu cầu tính lãi: Ngày 22/02/2024, Anh T rút toàn bộ yêu cầu tính lãi nên cần căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ yêu cầu này.
[3] Yêu cầu của VKS: Tại Đơn vắng mặt ngày 22/02/2024, Anh T đã trình bày cụ thể các nội dung yêu cầu của Viện kiểm sát nên Tòa án xét thấy không cần thiết thu thập thêm tài liệu chứng cứ gì.
[4] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án: Buộc bà T phải chịu án phí trên số tiền phải thanh toán cho Bà L là 1.250.000đ. Bà L là người cao tuổi đã được miễn nộp tạm ứng án phí nên không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 238; điểm c khoản 1 Điều 217; Điều 147; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 417 Bộ luật dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L về việc “Tranh chấp hụi, họ” với bà Phan Thị T .
Buộc bà T có nghĩa vụ thanh toán cho Bà L 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) mà Bà L có nghĩa vụ thanh toán sau khi hốt huê.
“Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 của Bộ luật dân sự”.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7; Điều 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Bà L đối với bà T về lãi suất trên số tiền 50.000.000đ mà Bà L có nghĩa vụ thanh toán sau khi hốt huê.
3. Về án phí: Buộc bà T phải chịu 1.250.000đ (Một triệu hai trăm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản sao bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Bản án 10/2024/DS-ST về tranh chấp hụi, họ
Số hiệu: | 10/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về