Bản án 10/2023/HS-ST ngày 04/04/2023 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 10 /2023/HS-ST NGÀY 04/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 04 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2023 và Thông báo số 01/2023/TB-TA ngày 06/3/2023 về việc dời ngày xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo:

Họ và tên: Danh Tùng D, sinh ngày 06/02/2000 tại huyện A, tỉnh Kiên Giang. Nơi cư trú: Ấp R, xã T A, huyện A, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Ngư phủ; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Danh T và bà Lê Thị Thùy T (Lê Thị T); bị cáo chưa có vợ chưa có con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 12/10/2022 đến ngày 20/10/2022, bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 20/10/2022 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn M, sinh năm 1984 Nơi cư trú: Ấp R, xã T A, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 12/10/2022 Danh Tùng D (gọi tắt là D) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda số loại Wave 110 biển kiểm soát 68B1-08007 đi đến ấp M, xã T A gặp một người tên L không rõ địa chỉ lai lịch mua 01 (một) bịch ma túy với số tiền 1.000.000 đồng về sử dụng. D lấy bịch ma túy mua của L bỏ vào gói thuốc lá Hero cất bên trong túi quần trái rồi điều khiển xe đi về. Khoảng 20 giờ cùng ngày Dg chạy xe đến đoạn đường thuộc ấp R, xã T A, huyện A, tỉnh Kiên Giang thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện An Biên tiến hành kiểm tra xe mô tô do D điều khiển. Qua kiểm tra phát hiện bên trong túi quần bên trái của D có 01 (một) gói thuốc lá hiệu Hero bên trong có 01 bịch nylon được hàn kín có kích thước (03cm x 02cm) bên trong có chứa các hạt tinh thể không đồng nhất nghi là ma túy được lập biên bản niêm phong.

Kết luận giám định số 1013/KL-KTHS ngày 18/10/2022 của Phòng kỹ thuận hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận:

Các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất chứa trong 01 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,3900gam.

(Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

Tại bản cáo trạng số 10/CT-VKSHAB ngày 12/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Danh Tùng D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo D thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo thừa nhận khoảng 19 giờ ngày 12/10/2022 bị cáo gặp đối tượng L để mua gói ma túy với giá 1.000.000 đồng và cất trong túi quần. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày D mượn xe mô tô biển kiểm soát 68 B1 - 08007 của người cậu tên Lê Văn M để đi mua đồ ăn, khi chạy xe đến đoạn đường thuộc ấp R, xã T A, huyện A, tỉnh Kiên Giang thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện An Biên tiến hành kiểm tra, phát hiện và thu giữ của D 01 (một) bịch ma túy cất giấu trong 01 bao thuốc lá Hero cùng phương tiện đang di chuyển. Bị cáo thống nhất và không có khiếu nại gì đối với kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang về chất ma túy và khối lượng ma túy đã tàng trữ.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – Lê Văn M (gọi tắt là M) trình bày: Xe mô tô biển kiểm soát 68 B1- 08007 thuộc quyền sở hữu của ông M. Vào ngày 12/10/2022 D đến nhà của ông M hỏi mượn xe để đi mua đồ ăn và ông M đồng ý cho D mượn xe. Sau đó ông hay tin D bị bắt cùng xe và ma túy trên người. Đến nay ông M đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì khác.

Trong bản luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Danh Tùng D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Danh Tùng D từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47 bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và bao thuốc lá Hero.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được việc làm của mình là sai trái với pháp luật xin Hội đồng xem xét cho được hưởng mức án nhẹ để sớm trở về gia đình đi làm kiếm tiền nuôi bà ngoại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa đã làm rõ: Vào khoảng 20 giờ ngày 12/10/2022, tại đoạn đường thuộc ấp R, xã TA, huyện A qua kiểm tra Công an huyện An Biên đã phát hiện D tàng trữ 01 (một) bịch ma túy cất giấu trong bao thuốc lá Hero để trong túi quần đang mặc trên người. Số ma túy trên D có được là do mua của một người tên L mục đích về để sử dụng. Bị cáo D thừa nhận hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng và đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Theo kết luận giám định số 1013/KL-KTHS ngày 18/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận số ma túy mà D đã tàng trữ có khối lượng là 0,3900 gam Methamphetamine.

Với khối lượng ma túy mà D cất giấu trên người đã bị Công an phát hiện và bắt quả tang có đủ căn cứ để cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên đã truy tố bị cáo D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Ma túy là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước xác lập chế độ thống nhất quản lý. Hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ thống nhất quản lý về ma túy của Nhà nước trong đó có quy định về nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển các chất ma túy; ngoài ra hành vi vi phạm của bị cáo còn xâm phạm đến trật tự, an ninh xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và sự phát triển bình thường của nòi giống dân tộc. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi hình sự, có khả năng để nhận thức rõ hành vi tàng trữ ma túy bị nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ thái độ ăn năn về hành vi phạm tội của mình do đó có căn cứ để áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự theo đề nghị của Viện kiểm sát.

[5] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng mặc dù bị cáo có tình tiết giảm nhẹ nhưng cũng cần áp dụng một mức hình phạt đủ nghiêm khắc, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để tiếp tục giáo dục bị cáo thành công dân sống biết tuân thủ pháp luật đồng thời nhằm răn đe chung. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo là người dân tộc thiểu số có hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn cha mẹ ly hôn phải sống với bà ngoại từ khi còn nhỏ, bị cáo sống thiếu tình thương và sự giáo dục của gia đình, không được học hành đến nơi đến chốn nên nhận thức có phần hạn chế, hiện nay bà ngoại đã già yếu. Do đó việc áp dụng mức hình phạt ở đầu khung cũng đủ để răn đe đối với bị cáo.

Hiện nay bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo D.

[6] Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng bao gồm: Số ma túy còn lại được hoàn trả sau giám định; 01 bao thuốc lá Hero.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Ông Lê Văn M đã nhận lại 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 68 B1-080xx, nhãn hiệu Honda màu sơn xám bạc, số máy C43E0511079, số khung 43149y007037 đã qua sử dụng đồng thời không có yêu cầu gì khác nên không đề cập xem xét.

[8] Các vấn đề khác:

Đối tượng tên L bán ma túy cho D không rõ nhân thân lai lịch, địa chỉ đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý về sau. [9] Về án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo D phải nộp án hình phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Danh Tùng D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Danh Tùng D 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ là ngày 12/10/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Danh Tùng D.

2. Về biện pháp tƣ pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- Các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất chứa trong 01 (một) bịch nylon gửi giám định, sau khi tiến hành giám định khối lượng còn lại là 0,3707 gam ma túy Methamphetamine đựng trong 01 (một) bịch nylon và bao gói đựng mẫu được niêm phong trong 01 (một) phong bì có ký hiệu vụ số 1013/2022. Có chữ ký của Giám định viên Lê Đức H, người chứng kiến Nguyễn Minh N.

- 01 (một) gói thuốc lá hiệu Hero.

Các vật chứng này được thể hiện trong Quyết định chuyển vật chứng số 10/QĐ-VKSHAB ngày 16/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/01/2023 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện An Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Danh Tùng D phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên là ngày 04/4/2023. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 10/2023/HS-ST ngày 04/04/2023 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;