TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KON PLÔNG, TỈNH KON TUM
BẢN ÁN 10/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG
Ngày 28 tháng 6 năm 2022 tại Điểm trường PTDTBT Tiểu học Thôn Kon Tu Rằng 1, xã Măng Cành huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, Tòa án nhâbn dân huyện Kon Plông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2022/TLST - HS ngày 20 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:
1/ A D; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 195x tại huyện K, tỉnh Kon Tum; Chỗ ở hiện nay: thôn K, xã M, huyện K, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 00/12; Chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mơ Nâm;Tôn giáo: Không. Con ông A ĐR (đã chết) và bà Y Đre (đã chết); Bị cáo có vợ là Y S (Sinh năm 196x); Bị cáo có 09 con, con lớn nhất sinh năm 1981, con nhỏ nhất sinh năm 2003. Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: tốt.
Bị cáo A D bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam từ ngày 25/3/2022 đến ngày 11/5/2022 được thay bằng biện pháp bảo lĩnh đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).
2/ A L; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 200x tại huyện K, tỉnh Kon Tum; Chỗ ở hiện nay: thôn K, xã M, huyện K, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 9/12; Chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mơ Nâm;Tôn giáo: Không. Con ông A D (sinh năm 195x) và bà Y S (sinh năm: 196x). Bị cáo là con thứ 8 trong gia đình có 09 chị em. Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: tốt.
Bị cáo A L bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam từ ngày 25/3/2022 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).
3/ A Ch; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 199x tại huyện K, tỉnh Kon Tum. Chỗ ở hiện nay: thôn Kg, xã M, huyện K, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 01/12; Chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Xơ Đăng; Tôn giáo: Không. Con ông A X và bà Y N. Bị cáo có vợ là Y L (Sinh năm 199x); Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: tốt.
Bị cáo A Ch bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam từ ngày 25/3/2022 đến nay.(Có mặt tại phiên tòa).
4/ Y Lo; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 199x tại huyện K, tỉnh Kon Tum; Chỗ ở hiện nay: thôn K, xã M, huyện K, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 00/12; Chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mơ Nâm;Tôn giáo: Không. Con ông A D (sinh năm 195x) và bà Y S (sinh năm: 196x). Bị cáo có chồng là A Ch (Sinh năm 199x); Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2016. Bị cáo là con thứ năm trong gia đình có 09 chị em. Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: tốt.
Bị cáo Y Lo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/3/2022 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).
5/ Y S; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 196x tại huyện K, tỉnh Kon Tum; Chỗ ở hiện nay: thôn K, xã M, huyện K, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 00/12; Chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mơ Nâm;Tôn giáo: Không. Con ông A Br (đã chết) và bà Y N (đã chết). Bị cáo có chồng là A D (Sinh năm 195x); Bị cáo có 09 con, con lớn nhất sinh năm 1981, con nhỏ nhất sinh năm 2003. Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: tốt.
Bị cáo Y S bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/3/2022 đến nay.(Có mặt tại phiên tòa).
- Nguyên đơn dân sự: Uỷ ban nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Thanh N – Chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đặng Thanh N là ông Mai Xuân M – Chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Măng Cành, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum (Theo văn bản ủy quyền số 300A/UBND-VP ngày 14/2/2022) - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Uỷ ban nhân dân xã Măng Cành, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
Người đại diện theo pháp luật ông Mai Xuân M – Chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Măng Cành, huyện Kon Plông, ti9nhr Kon Tum. (Có mặt)
- Người phiên dịch: Ông A Thắng – Chủ tịch Hội nông dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng tháng 9 năm 2021, A D vì thiếu đất canh tác nên nảy sinh ý định lấn chiếm đất rừng để mở rộng diện tích đất rẫy đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thôn Kon Tu Rằng, xã Măng Cành, huyện Kon Plông. Thực hiện ý định này, A D rủ các con là A Ch, A L, Y Lo và vợ là Y S đi phá rừng lấy đất. Sau khi nghe A D rủ, A Ch, A L, Y S và Y Lo đều đồng ý, cả nhóm thống nhất sau khi phát phá rừng xong sẽ chia cho mỗi người một phần diện tích đất để canh tác trồng mì. Hôm sau, A D, Y S, A Ch, A L và Y Lo chuẩn bị 01 cưa máy, 04 con dao dựa, A D và A Ch mỗi người sử dụng 01 xe máy độ chế để cùng nhau đi đến khu vực rừng thuộc Khoảnh 12 Tiểu khu 477 lâm phần do Ủy ban nhân dân xã Măng Cành quản lý, thuộc địa giới hành chính xã Măng Cành, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum bắt đầu thực hiện hành vi phá rừng trái pháp luật. Trong 02 ngày đầu, A Ch và A L thay nhau dùng cưa cắt hạ toàn bộ những cây gỗ lớn, A D, Y S và Y Lo dùng dao rựa để chặt hạ những cây nhỏ, cây bụi. Đến ngày thứ ba, A Ch nói với Y Lo về việc phải đi vào ruộng ở gần khu vực rẫy cũ để làm cho kịp mùa vụ nên không tham gia phá rừng được; Y S bị ốm nên nghỉ ở nhà chuẩn bị thức ăn, nước uống cho A D và A L. Còn A D, A L và Y Lo tiếp tục mang máy cưa, dao rựa đi đến khu vực rừng hôm trước thực hiện hành vi phá rừng. Đến khi phát phá toàn bộ các cây trên diện tích rừng đủ nhu cầu, cả nhóm không phát nữa, chờ khi cây khô thì thực hiện việc đốt dọn. Đến ngày 31/12/2021, tổ công tác liên ngành thuộc Ủy ban nhân dân xã Măng Cành phát hiện vụ việc và báo cáo Hạt kiểm lâm huyện Kon Plông thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 05/01/2022, Hạt kiểm lâm huyện Kon Plông phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành khám nghiệm hiện trường vụ án. Kết quả khám nghiệm hiện trường đã xác định diện tích rừng bị phá là 14.360 mét vuông, các cây rừng trên toàn bộ diện tích đã bị chặt phá. Theo Kết quả kiểm kê rừng năm 2014, diện tích rừng tại Lô 8 Khoảnh 12 Tiểu khu 477 lâm phần do Ủy ban nhân dân xã Măng Cành quản lý là rừng tự nhiên, chức năng rừng sản xuất. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Kon Plông đã yêu cầu A D xác định vị trí ranh giới diện tích rừng mà nhóm của A D đã phá. Kết quả làm việc tại hiện trường xác định diện tích rừng do A D, A Ch, A L, Y Lo và Y S phá trái phép là 5.145 mét vuông rừng sản xuất là rừng tự nhiên trong tổng diện tích rừng bị phá là 14.360 mét vuông.
Tại bản Kết luận giám định của Giám định viên trong lĩnh vực Lâm nghiệp tỉnh Kon Tum ngày 25/02/2022 kết luận: trữ lượng cây đứng trên diện tích 5.145 mét vuông rừng sản xuất là rừng tự nhiên bị thiệt hại là 62,177 m3, sản lượng gỗ thương phẩm bị thiệt hại gỗ là 31,607 m3. Về thiệt hại môi trường rừng Giám định viên không thực hiện được do không có cơ sở, căn cứ khoa học.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐĐG ngày 28/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kon Plông kết luận trị giá số gỗ 31,607 mét khối có giá trị 69.749.100 đồng.
Về vật chứng vụ án, trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Kon Plông đã tạm giữ: 01 (một) con dao rựa có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại, tổng chiều dài 54cm; 01 (một) con dao rựa có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại, tổng chiều dài 54cm; 01 (một) con dao rựa có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại, tổng chiều dài 61cm; 01 (một) máy cưa xăng màu đỏ cam, hiệu STIHL, tình trạng đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong máy; 01 (một) lam cưa bằng kim loại dài 47cm, đường kính lam vị trí rộng nhất là 8cm, 01 xích cưa bằng kim loại;
01 (một) con dao rựa có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại, tổng chiều dài 53cm; 02 (hai) xe máy độ chế, không rõ số khung số máy và số tiền 69.749.100 đồng.
Đối với vật chứng vụ án là toàn bộ số gỗ tại hiện trường, sau khi khám nghiệm hiện trường, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Kon Plông, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông và Hạt kiểm lâm huyện Kon Plông đã giao toàn bộ cho Ủy ban nhân dân xã Măng Cành quản lý theo quy định.
Tại Bản cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 19 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum đã truy tố các bị cáo A D và đồng phạm về tội “Hủy hoại rừng” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 243 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông phát biểu luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo; đã phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, đặc điểm nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Qua đó đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo A D, A L, Y Lo, A Ch, Y S phạm tội “Hủy hoại rừng” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 243 của Bộ luật hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243, Điều 38; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự tuyên phạt:
Bị cáo A D mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù, tính từ ngày bị bắt chấp hành án, bị cáo được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 25/3/2022 đến ngày 11/5/2022.
Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243, Điều 38; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 58, Điều 65 của Bộ luật hình sự tuyên phạt:
Các bị cáo A L và A Ch cùng mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao cho UBND xã Măng Cành giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách.
Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243, Điều 36; các điểm b, s khoản 1 Điều 51;; Điều 58 của Bộ luật hình sự tuyên phạt:
Bị cáo Y Lo từ 15 tháng đến 18 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo Y S từ 12 tháng đế 15 tháng cải tạo không giam giữ.
Giao các bị cáo Y Lo, Y S cho UBND xã Măng Cành quản lý, giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày UBND xã Măng Cành nhận được Quyết định, hồ sơ thi hành án theo quy định.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 243 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự. Tách vấn đề dân sự ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có đầy đủ căn cứ, và yêu cầu của nguyên đơn dân sự.
Đối với số tiền 69.749.100 đồng, các bị cáo đã nộp để bồi thường, khắc phục một phần hậu quả cho Nhà nước. Hiện tại tuy nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu do chưa có điều kiện chứng minh toàn bộ thiệt hại, nhưng đây là số tiền của các bị cáo tự nguyện nộp để bồi thường, khắc phục một phần hậu quả nên cần giao cho nguyên đơn dân sự (UBND huyện Kon Plông) xử lý nộp vào ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ vào nghĩa vụ bồi thường thiệt hại sau này nếu có.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) máy cưa xăng màu đỏ cam, hiệu STIHL, tình trạng đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong máy; 01 (một) lam cưa bằng kim loại dài 47cm, đường kính lam vị trí rộng nhất là 8cm, 01 xích cưa bằng kim loại; 02 (hai) xe máy độ chế, không rõ số khung số máy;
- Tịch thu tiêu hủy: 04 (bốn) con dao rựa có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại.
(Tất cả có đặc điểm mô tả như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/5/2022 giữa CQCSĐT Công an huyện Kon plông và Chi cục THADS huyện Kon Plông).
- Đối với 31,607 m3 gỗ còn lại tại hiện trường hiện Uỷ ban nhân dân xã Măng Cành tạm thời quản lý; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự giao cho Uỷ ban nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum là chủ sở hữu hợp pháp quản lý, xử lý theo quy định.
Đối với các bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông đã truy tố, thống nhất với bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo không bị mớm cung, ép cung hay bị dùng nhục hình.
Nguyên đơn dân sự trình bày ý kiến: Vì số gỗ tại hiện trường chưa được thu gom để xử lý bán đấu giá được bao nhiêu để khấu trừ thiệt hại; bên cạnh đó thiệt hại về môi trường rừng, và các thiệt hại khác từ rừng các cơ quan chức năng, nguyên đơn dân sự chưa xác định được. Nguyên đơn dân sự đề nghị tách vấn đề dân sự để yêu cầu giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: không có yêu cầu, đề nghị gì.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: các bị cáo đã nhận thức được hành vi chặt phá rừng là vi phạm pháp luật, bị cáo hối hận việc làm của mình cam đoan không tái phạm, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kon Plông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng mà đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông đã nêu. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy có đủ căn cứ khẳng định:
Vào khoảng tháng 09 năm 2021, do cần đất để sản xuất nên A D nảy sinh ý định phá rừng làm nương rẫy. A D đã rủ vợ là Y S và các con là A Ch, A L, Y Lo cùng thực hiện hành vi phá rừng và thống nhất sau khi phá rừng xong sẽ chia cho mỗi người một phần diện tích để canh tác. A D cùng Y S, A Ch, A L, Y Lo mang theo máy cưa, dao rựa, sử dụng 02 xe máy độ chế tới tại khu vực rừng thuộc Lô 8 Khoảnh 12 Tiểu khu 477 thuộc lâm phần do Ủy ban nhân dân xã Măng Cành quản lý thuộc địa giới hành chính xã Măng Cành, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum cắt hạ, chặt phá trái phép các cây gỗ tự nhiên gây thiệt hại trên diện tích 5.145 mét vuông rừng sản xuất là rừng tự nhiên; gây thiệt hại 31,607 m3 gỗ có giá trị 69.749.100 đồng. Về thiệt hại môi trường rừng Giám định viên không thực hiện được do không có cơ sở, căn cứ khoa học.
Như vậy, hành vi của các bị cáo A D, Y S, A Ch, A L, Y Lo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hủy hoại rừng” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 243 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 19 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Xét về hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội - đã xâm phạm quy định của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái rừng. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rằng việc chặt phá rừng trái phép là vi phạm pháp luật, nhưng vì lợi cá nhân, gia đình (cần đất sản xuất nông nghiệp) nên đã cố ý thực hiện. Trong khi Nhà nước ta, các ngành, các cấp tỉnh Kon Tum, huyện Kon Plông đã có nhiều giải pháp chỉ đạo quyết liệt, phát động các đợt cao điểm phong trào toàn dân tham gia quản lý, bảo vệ, phát triển rừng trên địa bàn, nhưng tình hình chặt phá rừng trái phép trên địa bàn huyện vẫn diễn ra ngày càng phức tạp. Do vậy, cần xử phạt bị cáo nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để trừng trị, giáo dục bị cáo đồng thời để răn đe phòng ngừa chung.
[4]. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, đặc điểm nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo.
- Về đặc điểm nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự.
- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng;
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
- Về tính chất của đồng phạm và mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm như mang tính chất giản đơn, mặc dù các bị cáo có sự bàn bạc, thỏa thuận, chuẩn bị công cụ trước khi thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có sự câu kết chặt chẽ, không có sự phân công vai trò cụ thể của từng bị cáo nên không xem là phạm tội có tổ chức.
A D là người nảy sinh ý định, rủ rê những bị can khác thực hiện hành vi phạm tội, A D cũng trực tiếp sử dụng dao để phá rừng. Do đó, A D có vai trò vừa là người khởi xướng, vừa là người thực hành trong vụ án.
A L tiếp nhận ý chí của A D, sử dụng cưa máy để thực hiện hành vi phá rừng, tham gia xuyên suốt quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, A L có vai trò là người thực hành tích cực trong vụ án.
Y Lo tiếp nhận ý chí của A D dùng dao rựa phát dây leo bụi rậm, chặt cây nhỏ để thực hiện hành vi phá rừng, tham gia xuyên suốt quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Y Lo có vai trò là người thực hành trong vụ án.
A Ch tiếp nhận ý chí của A D, sử dụng cưa máy để thực hiện hành vi phá rừng 02 ngày nhưng ngày thứ ba không tham gia phá rừng được vì đi làm ruộng cho kịp mùa vụ nên có vai trò là người thực hành trong vụ án.
Y S tiếp nhận ý chí của A D, dùng dao rựa phát dây leo bụi rậm, chặt cây nhỏ để thực hiện hành vi phá rừng, tham gia được 2 ngày nhưng ngày thứ ba Y S bị ốm nên nghỉ ở nhà chuẩn bị thức ăn, nước uống cho A D và A L nên Y S có vai trò vừa là người thực hành, vừa là người giúp sức trong vụ án.
Ngoài ra khi quyết định hình phạt cần xem xét thêm tình tiết: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật hạn chế, mục đích phá rừng cần đất sản xuất nông nghiệp; mối quan của các bị cáo là những người trong cùng gia đình. Trong đó bị cáo A D là chồng của bị cáo Y S; A L, Y Lo là con ruột của bị cáo A D và bị cáo Y S; bị cáo A Ch là chồng của bị cáo Y Lo (là con rể của của bị cáo A D và bị cáo Y S). Hơn nữa các bị cáo có con còn nhỏ cần có người chăm sóc, nuôi dưỡng.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo là người dân tộc thiểu số, nghề nghiệp làm nông, thu nhập không ổn định do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 243 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.
[6]. Về trách nhiệm dân sự (bồi thường thiệt hại):
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn dân sự có yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật. Tại phien tòa, đại diện nguyên đơn dân sự đề nghị tách vấn đề dân sự để yêu cầu giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo thực hiện hành vi chặt phá rừng trên diện tích 5.145 mét vuông rừng sản xuất là rừng tự nhiên gây thiệt hại 31,607m3 gỗ có giá trị 69.749.100 đồng, thiệt hại nêu trên là do bị cáo gây ra, lỗi thuộc về các bị cáo, các bị cáo phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho nguyên đơn dân sự.
Tuy nhiên, số gỗ này tại hiện trường chưa được thu gom để xử lý bán đấu giá được bao nhiêu để khấu trừ thiệt hại; bên cạnh đó tổng thiệt hại về rừng do các bị cáo chặt phá các cơ quan chức năng chưa xác định được. Tại phiên tòa, nguyên đơn dân sự đề nghị tách vấn đề dân sự (về bồi thướng thiệt hại) để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu. Xét thấy nguyên đơn dân sự chưa có điều kiện chứng minh thiệt hại và việc tách vấn đề dân sự không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự nên việc bồi thường thiệt hại cần tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi nguyên đơn có yêu cầu.
Đối với số tiền 69.749.100 đồng, các bị cáo đã nộp để bồi thường, khắc phục một phần hậu quả cho Nhà nước. Hiện tại tuy nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu do chưa có điều kiện chứng minh toàn bộ thiệt hại, nhưng đây là số tiền của các bị cáo tự nguyện nộp để bồi thường, khắc phục một phần hậu quả nên cần giao cho nguyên đơn dân sự (UBND huyện Kon Plông) xử lý nộp vào ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ vào nghĩa vụ bồi thường thiệt hại sau này nếu có.
[7]. Về xử lý vật chứng của vụ án:
- Đối với 01 (một) máy cưa xăng màu đỏ cam, hiệu STIHL, tình trạng đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong máy; 01 (một) lam cưa bằng kim loại dài 47cm, đường kính lam vị trí rộng nhất là 8cm, 01 xích cưa bằng kim loại; 02 (hai) xe máy độ chế, không rõ số khung số máy; xét thấy đây là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
- Đối với 04 (bốn) con dao rựa có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại, là công cụ các bị cáo dùng để phát, chặt hạ trái phép các cây gỗ hiện nay đã bị rỉ sét, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với khối lượng gỗ là 31,607 m3 gỗ có giá trị 69.749.100 đồng còn lại tại hiện trường do bị cáo chặt phá, Cơ quan cảnh sát điều tra đã giao cho Uỷ ban nhân dân huyện Kon Plông tạm thời quản lý. Hội đồng xét xử xét thấy nguyên đơn dân sự (Uỷ ban nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum) là cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với rừng tại địa phương. Do đó cần giao lại cho nguyên đơn dân sự quản lý đối với số gỗ tại hiện trường và tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật.
[8]. Đối với Uỷ ban nhân dân xã Măng Cành được giao quản lý, bảo vệ rừng tại Khoảnh 12 Tiểu khu 477 đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ được giao, phối hợp tuần tra, truy quét, phát hiện được hành vi phá rừng trái pháp luật của các bị cáo A D và đồng phạm, lập biên bản sự việc và báo cáo cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Do đó, chưa đủ cơ sở để xử lý về hành vi Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng [9]. Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo A D, Y S, A Ch, A L, Y Lo phạm tội “Hủy hoại rừng”
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243, Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo A D 14 (mười bốn) tháng tù, Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án và được trừ thời hạn tạm giam (từ ngày 25/3/2022 đến ngày 11/5/2022) là 01 tháng 18 ngày. Bị cáo phải chấp hành hình phạt 12 (mười hai) tháng 12 (mười hai) ngày.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243, Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo A L 13 (mười ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 26 (hai sáu) tháng tính từ ngày tuyên án 28/6/2022.
- Xử phạt bị cáo A Ch 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án 28/6/2022.
Giao người được hưởng án treo (A L, A Ch) cho UBND xã Măng Cành, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình người bị kết án (A L, A Ch) có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục (A L, A Ch).
Trường hợp người được hưởng án treo (A L, A Ch) thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo (A L, A Ch) cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo (A L, A Ch) phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243, Điều 36; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Y Lo 13 (mười ba) tháng cải tạo không giam giữ.
- Xử phạt bị cáo Y S 12 (mười hai) tháng tháng cải tạo không giam giữ.
Giao bị cáo Y Lo, Y S cho UBND xã Măng Cành, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã Măng Cành, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Gia đình bị cáo Y Lo, Y S có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo Y Lo, Y S. Không khấu trừ thu nhập của bị cáo Y Lo, Y S.
2. Về trách nhiệm dân sự:
Căn cứ Điều 30 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tách vần đề bồi thường thiệt hại ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi nguyên đơn dân sự có yêu cầu.
Giao cho Uỷ ban nhân dân huyện Kon Plông số tiền 69.749.100đ (Sáu mươi chín triệu, bảy trăm bốn mươi chín nghìn, một trăm đồng) mà các bị cáo đã tự nguyện nộp để bồi thường, khắc phục một phần hậu quả (theo Giấy Uỷ nhiệm chi số 03 ngày 26/5/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kon Plông cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông) xử lý nộp vào ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ vào nghĩa vụ bồi thường thiệt hại sau này nếu có.
3. Về xử lý vật chứng của vụ án:
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 04 (bốn) con dao rựa có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại - Tịch thu sung công quỹ nhà nước:
+ 01 (một) máy cưa xăng màu đỏ cam, hiệu STIHL, tình trạng đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong máy, 01 (một) lam cưa bằng kim loại dài 47cm, đường kính lam vị trí rộng nhất là 8cm, 01 xích cưa bằng kim loại.
+ 02 (hai) xe máy độ chế, không rõ số khung số máy.
(Tất cả theo đặc điểm mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/5/2022 giữa CQCSĐT Công an huyện Kon Plông và Chi cục THADS huyện Kon Plông).
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Giao cho nguyên đơn dân sự (Uỷ ban nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum) sản lượng gỗ là 31,607 m3 gỗ còn tại hiện trường tại Lô 8 Khoảnh 12, Tiểu khu 477 thuộc Lâm phần do Uỷ ban nhân dân xã Măng Cành, huyện Kon Plông quản lý để xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Về án phí:
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo A D, bị cáo Y S.
Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 3, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc các bị A Ch, A L, Y Lo mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/6/2022) bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo bản án để xin xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 10/2022/HS-ST về tội hủy hoại rừng
Số hiệu: | 10/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kon Plông - Kon Tum |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về