Bản án 10/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 242/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Dương Hữu T, sinh năm 1999; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn B, xã C, huyện B, tỉnh L; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Dương Hữu R, sinh năm 1974; họ tên mẹ: Dương Thị L, sinh năm 1972; gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 07/10/2020, tạm giữ từ ngày 08/10/2020 đến ngày 17/10/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

2. Hoàng Đình T, sinh năm 2001; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện B, tỉnh L; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Hoàng Đình N, sinh năm 1969; họ tên mẹ: Hứa Thị X, sinh năm 1971:

gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 07/10/2020, tạm giữ từ ngày 08/10/2020 đến ngày 17/10/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Dương Hữu T là: Ông Lê Quang Đạo – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 35 phút ngày 07/10/2020, Tổ công tác Y20/141 – CATP. Hà Nội phối hợp cùng Công an xã Yên Thường, Gia Lâm làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội phát hiện Dương Hữu T, sinh năm 1999, trú tại: Bình Thượng, Chiêu Vũ, Bắc Sơn, Lạng Sơn điều khiển xe máy hiệu Yamaha Sirius, BKS: 12S1-096.60 phía sau chở Hoàng Đình T, sinh năm 2001, trú tại: Lân Páng, Đồng Ý, Bắc Sơn, Lạng Sơn có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu T dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã phát hiện Hoàng Đình T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã phối hợp, bàn giao T và T cùng vật chứng cho Công an xã Yên Thường thuộc Công an huyện Gia Lâm lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Dương Hữu T và Hoàng Đình T.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

- Thu giữ của Hoàng Đình T: 01 túi nilong màu trắng bên trong có chứa các tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh đen, bên trong lắp sim số 0352245058, máy cũ đã qua sử dụng.

- Thu giữ của Dương Hữu T: 01 xe máy kiểu dáng nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng, BKS: 12S1-096.60, số khung: 015381, số máy: 097280; 01 điện thoại di động Honor màu đỏ đen, bên trong lắp sim số 0358242685 và 0866479456, máy cũ đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 8873/KLGĐ-PC09 ngày 14/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong thu giữ của Hoàng Đình T, là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,230 gam.

Tại cơ quan điều tra, Dương Hữu T và Hoàng Đình T khai nhận: Khoảng 20 giờ 40 phút ngày 07/10/2020, T rủ T đi Quế Võ, Bắc Ninh để chơi với bạn gái T, T đồng ý. T điều khiển xe máy hiệu Yamaha Sirius BKS: 12S1-096.60 của T chở T từ nhà trọ ở Cầu Giấy, Hà Nội để đi chơi. Khi đi được khoảng 01 km thì T nảy sinh ý định mua ma túy đá về sử dụng nên đã rủ T đi Từ Sơn, Bắc Ninh tìm mua ma tuý để cùng sử dụng, T đồng ý. Khi đến Từ Sơn, Bắc Ninh, T điều khiển xe máy vào một ngõ nhỏ và dừng xe trước một ngôi nhà có cổng bằng sắt, T xuống xe đứng đợi T. Tại đây, T sử dụng số tiền 200.000 đồng để mua của một người không quen biết 01 túi ma tuý đá. Sau khi mua được ma tuý, T đưa cho T cầm, T biết đó là ma túy nên cất vào túi áo khoác T đang mặc. Sau đó T điều khiển xe máy chở T đi về. Khi đi đến khu vực Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội thì bị lực lượng Công an thành phố Hà Nội bắt quả tang cùng vật chứng nêu trên. Lời khai nhận tội của các bị can phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối với số tiền 200.000 đồng để mua ma túy, T khai do anh Trần Văn Thảo, sinh năm 1987, trú tại: Số 92 đường Nguyễn Khánh T, Cầu Giấy, Hà Nội cho để uống nước, sửa xe dọc đường khi T nói với anh Thảo đi chơi với bạn gái.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho T, do không xác định được nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Quá trình điều tra làm rõ: Chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius BKS: 12S1- 096.60 T sử dụng thuộc sở hữu của T.

Đối với 01 điện thoại di động Honor màu đỏ đen, bên trong lắp sim số 0358242685 và 0866479456 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh đen, bên trong lắp sim số 0352245058 thu giữ của T và T qua điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 03/CT-VKSGL ngày 25 tháng 12 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố các bị cáo Dương Hữu T và Hoàng Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo Dương Hữu T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius BKS: 12S1- 096.60 cho bị cáo vì chiếc xe này là phương tiện đi lại chủ yếu và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống lao động, sinh hoạt thường ngày của bị cáo và gia đình. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Dương Hữu T từ 18 đến 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo T.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Hoàng Đình T từ 16 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo T.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của các bị cáo; hoàn trả Dương Hữu T: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng, BKS: 12S1-096.60, số khung: 015381, số máy: 097280 và 01 chiếc điện thoại di dộng Honor màu đỏ đen, có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ; hoàn trả Hoàng Đình T: 01 chiếc điện thoại di dộng Vivo màu xanh đen, có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ.

Người bào chữa cho bị cáo T có quan điểm như sau: Nhất trí về tội danh và điều luật áp dụng đối với hành vi phạm tội của bị cáo theo Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố. Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Tại các cơ quan tiến hành tố tụng, bị cáo thành khẩn khai báo, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thái độ ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, thấp hơn mức đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, người bào chữa, các bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 23 giờ 35 phút phút ngày 07/10/2020, tại khu vực Dốc Lã, xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, Hà Nội, bị cáo Dương Hữu T và Hoàng Đình T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,230 gam để sử dụng thì bị Cơ quan công an bắt giữ cùng vật chứng. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố các bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt áp dụng đối với các bị cáo:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Methamphetamine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm ma tuý. Các bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[3.2] Về đồng phạm: Đây là một vụ án hình sự mang tính chất đồng phạm giản đơn do hai bị cáo cùng cố ý thực hiện tội phạm, trong đó: Dương Hữu T là người khởi xướng, thực hành tích cực; Hoàng Đình T là người thực hành. Nên các bị cáo cùng phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình đã gây ra và cùng phải chịu một chế tài do điều luật đó quy định, song về nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện hành vi phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự liên quan đến bị cáo nào thì áp dụng đối với riêng bị cáo đó.

[3.3] Về nhân thân các bị cáo:

Các bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự.

[3.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo Dương Hữu T là người có trình độ học vấn thấp, là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Như vậy, bị cáo T có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, bị cáo T có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với từng bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo tại phiên toà thể hiện: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của các bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng, BKS: 12S1- 096.60, số khung: 015381, số máy: 097280 thuộc sở hữu của bị cáo Dương Hữu T là phương tiện đi lại chủ yếu và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống lao động, sinh hoạt thường ngày của T và gia đình nên hoàn trả Dương Hữu T chiếc xe máy nói trên.

Hoàn trả Dương Hữu T: 01 chiếc điện thoại di dộng Honor màu đỏ đen cũ đã qua sử dụng có lắp sim liên lạc do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Hoàn trả Hoàng Đình T: 01 chiếc điện thoại di dộng Vivo màu xanh đen cũ, đã qua sử dụng, có lắp sim liên lạc do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo Dương Hữu T là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Hoàng Đình T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho T không biết tên tuổi, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Trần Văn Thảo là người cho T 200.000 đồng để chi tiêu trên đường đi, quá trình điều tra anh Thảo không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của T, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Hữu T và Hoàng Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Dương Hữu T 14 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2020.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo T.

2.3. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Hoàng Đình T 13 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2020.

2.4. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo T.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,180 gam (đã trừ trích mẫu giám định 0,050 gam), đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Hoàng Đình T, chữ ký của Giám định viên và cán bộ Công an xã Yên Thường do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định.

3.2. Hoàn trả Dương Hữu T: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Siriu, BKS: 12S1-096.60, số khung: 015381, số máy: 097280, xe cũ đã qua sử dụng và 01 chiếc điện thoại di dộng Honor màu đỏ đen, có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ thu giữ của bị cáo Dương Hữu T.

3.3. Hoàn trả Hoàng Đình T: 01 chiếc điện thoại di dộng Vivo màu xanh đen, có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ.

(tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 19/01/2021).

4. Về án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Dương Hữu T.

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Hoàng Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;