Bản án 10/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 219/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Hà Quý T (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 28 tháng 02 năm 1986 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 9, phố K, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Quý T và con bà Chung Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền án: Bị cáo có 02 tiền án, tại Bản án số 180/2017/HSST ngày 23/11/2017, Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 15 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tại Bản án số 103/2019/HSST ngày 11/7/2019, Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 01 (một) năm tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/5/2020, chưa được xóa án tích; nhân thân: Đã bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 14/9/2020 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Chị Đinh Thị M, sinh năm 1986; nơi cư trú: Số 7, đường V, khối T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Hà Văn C, sinh năm 1941; nơi cư trú: Số 9, phố K, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ ngày 08/9/2020, Hà Quý T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, biển kiểm soát 12P1 - 46XX đi từ nhà xuống Bệnh viện Phổi tỉnh Lạng Sơn, khi đi đến khu vực đường N, khối 10, phường T, Hà Quý T quan sát thấy chị Đinh Thị M đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ, biển kiểm soát 12P1-228.xx đi phía trước, túi quần đằng sau bên phải chị Đinh Thị M đang mặc lộ một góc tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng ra bên ngoài. Hà Quý T nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trên nên điều khiển xe mô tô đi theo phía sau chị Đinh Thị M. Khi chị Đinh Thị M điều khiển xe mô tô đi đến khu vực phía sau bệnh viện đa khoa tỉnh Lạng Sơn cũ thì Hà Quý T điều khiển xe mô tô áp sát phía bên phải cùng chiều dùng tay trái thò sang cầm vào góc tờ tiền trong túi chị Đinh Thị M rút ra rồi ngay lập tức điều khiển xe mô tô bỏ chạy. Chị Đinh Thị M phát hiện bị mất tiền đã kêu lên rồi đuổi theo đến đường B nhưng không kịp, sau đó chị đến cơ quan Công an trình báo sự việc.

Tại Cơ quan điều tra Hà Quý T khai nhận ngày 08/9/2020, Hà Quý T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, biển kiểm soát 12P1 - 46XX đi uống thuốc Methadone tại bệnh viện phổi tỉnh Lạng Sơn, trên đường đi do thiếu tiền tiêu sài cá nhân nên khi phát hiện chị Đinh Thị M hở một góc tờ tiền ở phải đang mặc, Hà Quý T đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên sau đó bỏ chạy đến khu vực đường P, phường T kiểm tra số tiền vừa chiếm đoạt được là 625.000 đồng, bao gồm 01 tờ 500.000 đồng gấp đôi ở phía bên ngoài, bên trong là 02 tờ 50.000 đồng, 01 tờ 20.000 đồng, 01 tờ 5.000 đồng. Hà Quý T điều khiển xe về nhà thay áo, rồi quay lại bệnh viện phổi uống thuốc Methadone, sau đó tiếp tục đi chơi điện tử, tiêu sài hết số tiền 405.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 04/QĐ-VKS-HS ngày 17/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Hà Quý T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hà Quý T khai nhận: Ngày 08/9/2020 tại khu vực đường N, phường T, thành phố L, quan sát thấy chị Đinh Thị M đang điều khiển xe đi phía trước cùng chiều để tiền trong túi quần đằng sau bên phải lộ tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. Bị cáo liền điều khiển xe mô tô Honda Wave màu đen, biển kiểm soát 12P1-46XX áp sát chị Đinh Thị M và giật được số tiền 625.000 đồng chị Đinh Thị M để trong túi quần rồi điều khiển xe bỏ chạy. Bị hại phát hiện bị mất tiền có đuổi theo bị cáo nhưng không kịp. Bị cáo tiếp tục điều khiển xe mô tô đến khu vực đường P, phường T kiểm tra số tiền vừa chiếm đoạt được là 625.000 đồng, bị cáo về nhà thay áo, rồi quay lại bệnh viện phổi uống thuốc Methadone, sau đó bị cáo đi đổ xăng hết 40.000 đồng, rồi đi thẳng lên quán Intenet 116, địa chỉ: Số184, đường B, phường H, thành phố L chơi điện tử hết số tiền 405.000 đồng.

Tại cơ quan Điều tra chị Đinh Thị M khai: Khoảng 07 giờ 20 phút, ngày 08/9/2020 chị từ nhà điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Hon da Lead biển kiểm soát 12P1-22855 đưa con đi học tại Trường tiểu học C, sau đó đi ăn sáng và mua đồ ăn tại chợ Bờ Sông (đối diện cổng sau chơ Đ). Đến khoảng 10 giờ cùng ngày chị đi về nhà theo hướng từ chợ B ra đường T, rẽ trái sang đường T, đi thẳng rồi xuống đường N, khi đi đến phía sau bệnh viện Đa khoa cũ, chị thấy xe mô tô phía sau đi áp sát vào bên phải xe mô tô của chị, chị giật mình xe bị loạng choạng, chị phát hiện bị mất tiền để trong túi quần liền kêu lên và điều khiển xe mô tô đuổi theo sau nhưng xe phía trước đi nhanh chị đuổi theo kịp. Sau đó chị đi về nhà, chiều cùng ngày chị đến trình báo công an về sự việc. Ngày 11/9/2020 chị đã được cơ quan Điều tra trả cho chị số tiền 220.000 đồng và được gia đình bị cáo khắc phục hậu quả trả cho chị số tiền 405.000 đồng, chị không có yêu cầu gì thêm. Chị có đơn xin xét xử vắng mặt và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan ông Hà Văn C trình bày: Ông có mua chiếc xe mô tô HondaWave màu đen, biển kiểm soát 12P1- 46XX vào tháng 12/2009, giấy chứng nhận đăng ký đứng tên ông là Hà Văn C. Chiều ngày 07/9/2020 ông xuống Bệnh viện da liễu Trung ương để chữa bệnh đến ngày 09/11/2020 ông về nhà. Thời gian ông đi chữa bệnh, không biết cháu nội ông là Hà Quý T đi đâu, làm gì. Khi ông đi chữa bệnh vẫn để chìa khóa xe môt tô cho Hà Quý T, vì thường ngày Hà Quý T vẫn điều khiển xe mô tô của ông đến bệnh viện phổi để uống thuốc Methadone. Ngày 08/9/2020, Hà Quý T đã sử dụng xe của ông đi cướp giật tài sản của người khác, ông đề nghị Hội đồng xét xử cho ông xin lại chiếc xe máy để gia đình sử dụng.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hà Quý T phạm tội Cướp giật tài sản.

Áp dụng điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Đề nghị xử phạt đối với bị cáo Hà Quý T từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù đến 04 (bốn) năm tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có điều kiện thi hành Về trách nhiệm dân sự: Chị Đinh Thị M, đã được Cơ quan Điều tra trả lại số tiền 220.000 đồng và gia đình bị cáo đã khắc phục bồi thường cho chị số tiền 405.000 đồng; chị không yêu cầu bị cáo phải phần bồi thường nên không xem xét giải quyết. Bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về tang vật: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hà Văn C 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu mô tô HondaWave màu đen, biển kiểm soát 12P1- 46XX.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị hại chị Đinh Thị M vắng mặt nhưng chị đã có đơn xin xét xử vắng mặt; căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị hại.

[2] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về chứng cứ tài liệu trong vụ án được thu thập, bảo quản đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Hà Quý T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như cáo trạng truy tố. Lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa phù hợp nhau, phù hợp với các lời khai của bị hại, biên bản xác định hiện trường và các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội Cướp giật tài sản.

[4] Xét thấy hành vi của bị cáo gây ra là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không chỉ xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây nguy hiểm cho tính mạng, sức khỏe của người bị hại, gây mất gây mất an ninh trật tự trên địa bàn và gây hoang mang trong quần chúng nhân dân bị cáo nhận thức được việc cướp giật tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng do muốn có tiền để tiêu sài cho bản thân đã cố ý thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo điều khiển, sử dụng xe mô tô và bị hại cũng đang điều khiển xe mô tô lưu thông trên đường cùng chiều với bị cáo, tài sản bị cáo chiếm đoạt được là số tiền 625.000 đồng, sau khi lấy được tiền, bị cáo nhanh chóng tẩu thoát. Bị cáo thực hiện hành vi điều khiển xe mô tô giật tiền của bị hại đang điều khiển xe mô tô lưu thông, hành vi đó có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại nên được xác định là "Dùng thủ đoạn nguy hiểm"; khi phạm tội bị cáo có 02 tiền án, chưa được xoá án tích, lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm. Do đó, có đủ căn cứ để xác định bị cáo Hà Quý T phạm tội Cướp giật tài sản được quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên còn phải xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các yếu tố khác có liên quan của bị cáo.

[6] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân xấu, có 02 tiền án, chưa được xoá án tích. Tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, bị cáo tác động gia đình bị cáo khắc phục hậu quả cho bị hại và bị hại có đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, trong gia đình bị cáo có bố là ông Hà Quý T được Chủ tịch nước tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang nên bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã bị áp dụng hai tình tiết "dùng thủ đoạn nguy hiểm”; tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung nên bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng để thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Từ những phân tích như trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Do đó, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Đối với số tiền bị cáo đã giật được của bị hại là 625.000 đồng. Ngày 11/9/2021 chị Đinh Thị M, đã được Cơ quan Điều tra trả lại số tiền 220.000 đồng và gia đình bị cáo đã khắc phục bồi thường cho chị số tiền 405.000 đồng, chị không có yêu cầu gì thêm về phần bồi thường dân sự, nên không đề cập giải quyết.

[9] Đối với vật chứng vụ án: Đối với chiếc xe mô tô HondaWave màu đen, biển kiểm soát 12P1- 46XX; số máy HC121391659; số khung: 12169Y190858, không có gương chiếu hậu, đã qua sử dụng, hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, xác định ông Hà Văn C là chủ sở hữu, bị cáo đã sử dụng chiếc xe mô tô là phương tiện phạm tội cướp giật tài sản ông không biết. Ông Hà Văn C có yêu cầu xin lại chiếc xe mô tô HondaWave màu đen, biển kiểm soát 12P1-46XX để sử dụng, đề nghị của ông có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội, hướng xứ lý vật chứng đúng quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[12] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hà Quý T phạm tội Cướp giật tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hà Quý T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù;

thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 14/9/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho ông Hà Văn C 01 (một) chiếc xe mô tô HondaWave màu đen, biển kiểm soát 12P1- 46XX; số máy HC121391659; số khung: 12169Y190858, không có gương chiếu hậu, đã qua sử dụng.

(Vật chứng nói trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, có đặc điểm như được mô tả trong biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/12/2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L và Chi cục Thi hành án án dân sự phố Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Hà Quý T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hà Văn C có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại chị Đinh Thị M vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;