Bản án 10/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 507/2020/TLST- HS ngày 25 tháng 11 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 511/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Tô Hồng Q, sinh năm: 1992 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn T (thôn L cũ), xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông không rõ và bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1952; có 05 chị ruột lớn nhất sinh năm 1979 nhỏ nhất sinh năm 1989; có vợ tên Nguyễn Thị H, sinh năm 1994, có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 12/8/2020, có mặt tại phiên tòa.

2. Vũ Tiến H, sinh năm: 1991 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Vũ Tiến M, sinh năm 1961 và bà Lê Thị C, sinh năm: 1963; 02 anh, chị ruột, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ sinh năm 1986; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 12/8/2020, có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

Nguyễn Anh T, sinh năm: 1991; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tô Hồng Q và Vũ Tiến H quen biết nhau và sử dụng trái phép chất ma túy đá. Khoảng 22 giờ ngày 12/8/2020 Q rủ H đi mua ma túy sử dụng. H điều khiển xe mô tô biển số 50R- 5747, hiệu Honda, số khung NCE 1188264, số máy NC 23688856 chở Q đến khu vực nghĩa địa phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương gặp 01 người đàn ông chưa rõ lai lịch để mua lấy 200.000 đồng, người đàn ông tên V đưa 01 gói ma túy đá. H đưa gói ma túy cho Q cất, rồi H điều khiển xe chở Q về thành phố D, tỉnh Bình Dương. Khi H chở Q đi đến đoạn đường thuộc khu phố T, phường T, thành phố D, bị Công an phường T kiểm tra phát hiện Q cầm 01 gói ma túy đá ở tay phải. Công an phường T lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 01 gói ny long chứa chất tinh thể màu trắng thu của H và Q. 01 xe mô tô biển số 50R-5747, hiệu Honda, số khung NCE 1188264, số máy NC 23688856 của H.

Tại Kết luận giám định số 515/MT-PC09 ngày 20/8/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu tinh thể màu trắng thu giữ của Tô Hồng Q và Vũ Tiến H gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1556 gam, loại Methamphetamine.

Đối với đối tượng V bán ma túy cho H và Q chưa xác định được lai lịch, địa chỉ khi nào xác minh được sẽ tiến hành xử lý sau.

Tại cáo trạng số 539/CT–VKS ngày 24 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Tô Hồng Q và Vũ Tiến H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Tô Hồng Q, mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù và Vũ Tiến H, mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

Đối với xe mô tô biển số 50R-5747, hiệu Honda, số khung NCE 1188264, số máy NC 23688856, của chị Nguyễn Thị Kim C, đứng tên chủ sở hữu. Chị C mua xe này năm 1992 đến năm 2000 bán chiếc xe này với giá 2.500.000 đồng cho người không rõ lai lịch, không làm thủ tục sang tên. H mua lại chiếc xe này năm 2008 của người không rõ lai lịch với giá 200.0.000 đồng, khi mua xe chỉ giao xe và giấy đăng ký xe. Do đó cần tịch thu xe mô tô nói trên sung ngân sách Nhà nước.

Đối với số ma túy còn lại sau giám định đã được niêm phong cần tịch thu tiêu hủy.

Tại phiên tòa, các bị cáo không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Tại cơ quan điều tra người chứng kiến không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Ngày 12/8/2020 tại tổ 15, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương Lê Hồng Q và Vũ Tiến H có hành vi tàng trữ trái phép 0,1556 gam ma túy loại Methamphetamine đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 539/CT–VKS ngày 24 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo nhân thân xấu, nghiện ma túy. [7] Xử lý vật chứng:

Đối với xe mô tô biển số 50R-5747 Hiệu Honda, số khung NCE 1188264, số máy NC 23688856, xe của chị Nguyễn Thị Kim C, đứng tên chủ sở hữu. Chị C mua xe này năm 1992 đến năm 2000 bán chiếc xe này 2.500.000 đồng cho người không rõ lai lịch nhưng không làm thủ tục sang tên. H mua lại chiếc xe này năm 2008 của người không rõ lai lịch với giá 200.0.000 đồng, khi mua xe chỉ giao xe và giấy đăng ký xe. Do đó cần tịch thu xe mô tô nói trên sung ngân sách Nhà nước.

Đối với số ma túy còn lại sau giám định đã được niêm phong cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành; nên không xem là đồng phạm có tổ chức.

[9] Mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[10] Đối với đối tượng V bán ma túy cho Hùng và Quân chưa xác định được lai lịch, địa chỉ khi nào xác minh được sẽ tiến hành xử lý sau.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Tô Hồng Q và Vũ Tiến H phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Tô Hồng Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2020.

- Xử phạt bị cáo Vũ Tiến H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy bì thư đã niêm phong bên trong chứa ma túy Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định;

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước xe mô tô biển số 50R-5747 Hiệu Honda, số khung NCE 1188264, số máy NC 23688856.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/11/2020, bút lục 125).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Tô Hồng Q và Vũ Tiến H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;