Bản án 10/2021/HS-ST ngày 09/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận S xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 18/2021/HS-ST ngày 02 tháng 02 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST - HS ngày 26 tháng 02 năm 2021, đối với bị cáo:

LÊ HỮU T, (tên gọi khác: Không); sinh ngày: 18/02/1994, tại thành phố Đà Nẵng; nơi cư trú: Thôn T, xã Lộc T, huyện P, tỉnh Th; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 02/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con bà Lê Thị T, sinh năm 1969; không rõ cha; gia đình có 02 người con, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/11/2020, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Văn N, sinh năm 2000; trú tại: Thôn T, xã D, huyện D, tỉnh Q. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Phạm Tấn Đ, sinh năm 1974; trú tại: Tổ 17, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 12 giờ 25 phút ngày 19/11/2020, tại đường Trần Hưng Đ, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng, Tổ công tác C1-911 – Công an thành phố Đà Nẵng phát hiện Lê Hữu T điều khiển xe mô tô hiệu Exciter, BKS: 92F1-408.81 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu Tài dừng xe. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện T cất giấu trong lòng bàn tay phải của T 01 gói ni lông kích thước 01x02 cm, bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng, T khai nhận là ma túy đá mua về sử dụng.

Vật chứng tạm giữ của T:

- 01 gói ni lông kích thước 01x02 cm, bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng (đã niêm phong và ký hiệu là: T).

- 01 xe mô tô hiệu Exciter, BKS: 92F1-408.81.

Tại Kết luận giám định số 337/GĐ-MT ngày 25/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Mẫu tinh thể trong bì niêm phong ký hiệu T gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,235 gam.

Qua điều tra xác định: Do có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy, nên khoảng 12 giờ ngày 19/11/2020, T mượn điện thoại của 01 đối tượng chưa rõ lai lịch gọi vào số 0935367054 của 01 người phụ nữ tên Tr (không rõ lai lịch) hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 300.000 đồng về để sử dụng, Tr đồng ý và hẹn đến Kiệt 15 đường Ngũ Hành S, quận N, thành phố Đà Nẵng để giao dịch ma túy. Sau đó T điều khiển xe mô tô BKS: 92F1-408.80 đến địa điểm trên để mua ma túy, trên đường về đến khu vực đường Trần Hưng Đ, thành phố Đà Nẵng thì bị bắt quả tang như đã nêu trên.

- Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến vắng mặt nhưng trong hồ sơ thể hiện hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo Lê Hữu T.

Bản cáo trạng số 22/CT- VKS - ST ngày 01/02/2021, của Viện Kiểm sát nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Lê Hữu T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Hành vi của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 xử phạt bị cáo Lê Hữu T từ 18 đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do không xác minh được tài sản riêng của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu: T hoàn trả sau giám định số 337/GĐ- MT ngày 25/11/2020 của Phòng KTHS Công an TP. Đà Nẵng liên quan đến vụ án hình sự Lê Hữu T.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn Nam vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Sơn Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo Lê Hữu T đã khai nhận toàn bộ diễn biến sự việc mua và tàng trữ ma túy vào ngày 19/11/2020. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như kết quả giám định mà Cơ quan điều tra đã thu thập được. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định bị cáo Lê Hữu T đã thực hiện hành vi phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như vậy, bản cáo trạng số 22/CT-VKS –ST ngày 01 tháng 02 năm 2021, của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Ma túy hiện đang là tệ nạn của xã hội, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, lao động, học tập của con người và là nguyên nhân của các tội phạm khác. Bị cáo T nhận thức được các tác hại đó, biết được hành vi tàng trữ, sử dụng ma túy là nguy hiểm cho xã hội và bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Cụ thể, vào ngày 19/11/2020, Lê Hữu T đã mua 300.000 đồng ma túy của đối tượng tên Tr (chưa rõ lai lịch) tại đường Ngũ Hành S, thành phố Đà Nẵng về sử dụng. Đến 12 giờ 25 phút cùng ngày, sau khi mua được ma túy, Tài điều khiển xe mô tô về đến đường Trần Hưng Đ, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang Tài đang tàng trữ trái phép 0,235 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời còn xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe của con người.

[4]. Xét nhân thân của bị cáo thì thấy:

[4.1]. Tình tiết tăng nặng: Không có.

[4.2]. Xét tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, rõ ràng nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Do không xác minh được tài sản riêng của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[6]. Về xử lý vật chứng:

[6.1]. Đối với 01 phong bì niêm phong ký hiệu: T hoàn trả sau giám định số 337/GĐ- MT ngày 25/11/2020 của Phòng KTHS Công an TP. Đà Nẵng liên quan đến vụ án hình sự Lê Hữu T là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

(Vật chứng hiện nay do Chi cục Thi hành án quận S, TP. Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/02/2021).

[7]. Đối với đối tượng tên Tr là người bán ma túy cho T, hiện chưa rõ lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an quận S tiếp tục làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

[8]. Đối với anh Phạm Văn N – là chủ sở hữu xe mô tô BKS: 92F1-408.81). Khi cho T mượn xe, anh Nam không biết T sử dụng vào mục đích phạm tội, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Hữu T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1/ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Lê Hữu T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ (19/11/2020).

2/ Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu: T hoàn trả sau giám định số 337/GĐ- MT ngày 25/11/2020 của Phòng KTHS Công an TP. Đà Nẵng liên quan đến vụ án hình sự Lê Hữu T.

(Vật chứng hiện nay do Chi cục Thi hành án quận S, TP. Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/02/2021).

3/ Án phí HSST: Bị cáo Lê Hữu T phải chịu 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2021/HS-ST ngày 09/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;