Bản án 10/2021/HS-ST ngày 05/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 05/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 05 tháng 3 năm 2021 tại Phòng xử án hình sự, trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

T T T Tr (tên gọi khác: Mén); sinh ngày 27/4/1984, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Hộ khẩu thường trú: xxxTô Hiến Thành, Phường X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. Tạm trú: XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính : Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần V N và bà Nguyễn T H, bị cáo có chồng tên là L J L (đã ly hôn), có 04 người con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 10/6/2020; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông N H H Dg, sinh năm 1996; nơi cư trú: Hộ khẩu thường trú: XX Lạc Long Quân, Phường X, quận XX, Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện đã bị đưa vào Cơ sở xã hội Nhị Xuân, chờ xử lý đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông T Q B, sinh năm 1991; nơi cư trú: Hộ khẩu thường trú: XX Võ Văn Kiệt, phường XX, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở: XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 10/6/2020, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về Ma túy Công an quận Tân Bình trên đường tuần tra đến trước nhà số 07 Trần Văn Hoàng, Phường 9, quận Tân Bình thì phát hiện đối tượng N H H Dg (sinh năm: 1996; hộ khẩu thường trú: XX đường Lạc Long Quân, Phường X, quận xx; nơi cư trú: XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X), có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, Công an phát hiện trong túi quần phía sau bên trái của đối tượng Dg có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu nghi là ma túy nên đua đối tượng cùng vật chứng về trụ sở Công an Phường 9, quận Tân Bình để điều tra làm rõ. (BL 111)

Tại Công an Phường 9, quận Tân Bình, đối tượng N H H Dg khai nhận gói nylon chứa tinh thể không màu bị thu giữ là của đối tượng tên Trang (tên gọi khác Mén), cư trú tại lầu 1 nhà số XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X, đưa cho đối tượng Dg mang đi giao cho đối tượng Ken (không rõ lai lịch).

Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Tân Bình tiến hành khám xét khẩn cấp nơi cư trú của đối tượng N H H Dg và T T T Tr tại nhà số XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận x1. Kết quả khám xét tại tầng trệt nhà số XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận x1 là nơi ở của đối tượng Dg, Công an không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến ma túy. (BL: 38-45)

Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về Ma túy Công an quận Tân Bình tiếp tục phối hợp với Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về Ma túy Công an Quận 11 và Công an Phường 11, Quận 11, khám nghiệm hiện trường, kiểm tra phòng ngủ tầng 1, nhà số XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X. Qua khám nghiệm, Công an phát hiện đối tượng T T T Tr đang có mặt trong phòng lầu 1 cạnh cầu thang cùng với đối tượng tên Bảo. Tại thời điểm kiểm tra, Công an phát hiện ngay cạnh chỗ ngồi của đối tượng Tr có 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET bên trong có 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, 01 gói nylon bên trong chứa bột vụn màu xanh nghi là ma túy và một số dụng cụ dùng để sử dụng ma túy nên đua đối tượng T T T Tr cùng vật chứng về Công an Phường 11, Quận 11, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. (BL 53-68; 109-110)

Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Tân Bình tiến hành trưng cầu giám định chất tinh thể không màu chứa trong các túi nylon đã thu giữ của đối tượng N H H Dg và T T T Tr. Tại Bản kết luận giám định số 977/KLGĐ-H ngày 18/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận (BL 50):

- Gói 1: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên N H H Dg và T T T Tr, Vương Việt Thắng (Điều tra viên) và hình dấu tròn của Công an Phường 9, quận Tân Bình, ký hiệu mẫu m1, có khối lượng 9,8572g, không tìm thấy ma túy.

- Gói 2: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon (để trong vỏ bao thuốc lá Jet) được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký T T T Tr, Vương Việt Thắng (Điều tra viên) và hình dấu tròn của Công an Phường 11, Quận 11, ký hiệu mẫu m2, có khối lượng 22,0366g, không tìm thấy ma túy.

- Gói 3: Bột màu xanh trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký T T T Tr, Vương Việt Thắng (Điều tra viên) và hình dấu tròn của Công an Phường 11, Quận 11, ký hiệu mẫu m3, là ma túy thể rắn, khối lượng 0,3297g, loại MDMA.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Tân Bình, ban đầu đối tượng N H H Dg khai nhận: Đối tượng Dg ở chung nhà cùng với bị can T T T Tr (Mén) tại số XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X. Bị can Tr ở trên lầu 1, còn đối tượng Dg ở dưới đất phòng khách. Đối tượng Dg biết bị can Tr là do mẹ của Dg là người giúp việc nhà cho bị can Tr tại nhà số XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X, do bị can Tr thuê nên bị can Tr cho mẹ con đối tượng Dg ở nhờ. Bản thân đối tượng Dg có sử dụng ma túy đá và nguồn gốc ma túy mà đối tượng Dg sử dụng là mua từ bị can Tr, mỗi lần đối tượng Dg mua với giá từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Khoảng 11 giờ 45 ngày 10/6/2020, đối tượng Dg đang ở phòng khách thì bị can Tr kêu đối tượng Dg lên phòng của bị can Tr trên lầu 1 rồi đưa cho đối tượng Dg 01 gói ma túy để đối tượng mang đi giao cho khách mà bị can Tr đã hẹn trước, tại khách sạn Châu Thiên Tứ, đường Trần Văn Hoàng, Phường 9, quận Tân Bình, lấy số tiền 2.000.000 đồng mang về cho bị can Tr. Bị can Tr sẽ cho đối tượng Dg tiền công là 100.000 đồng. Sau khi nhận ma túy, đối tượng Dg cất giấu vào túi quần bên trái của mình đang mặc, rồi điều khiển xe biển số: 59P1-41070, đến điểm hẹn để giao ma túy. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, đối tượng Dg chạy đến trước nhà số 07 Trần Văn Hoàng, Phường 9, quận Tân Bình thì bị Công an phát hiện và mời về Công an Phường kiểm tra. Đối tượng Dg khai đây là lần thứ 2 bị can Tr đưa ma túy cho đối tượng đi giao cho khách nhung chua kịp giao thì bị kiểm tra phát hiện, lần đầu tiên cách đó khoảng 02 tuần, bị can Tr đưa ma túy cho đối tượng Dg đi giao cho khách ở đường Bình Thới 01 gói ma túy với giá 150.000 đồng, giao xong thì bị can Tr trả tiền công cho đối tượng Dg 30.000 đồng. Tuy nhiên, sau đó đối tượng Dg phủ nhận toàn bộ lời khai ban đầu, đối tượng Dg khai: Đối tượng Dg biết gói nylon được cất giữ trong túi quần của đối tượng Dg không phải là ma túy đá, vì bình thường ma túy đá mà đối tượng Dg sử dụng không giống với loại đựng trong gói nylon bị thu giữ, nên khi bị Công an bắt giữ, đối tượng Dg nhận đại là ma túy để khi được đưa đi giám định xác định không phải là ma túy thì đối tượng cũng không bị xử lý. Đối tượng Dg khai không biết tại sao túi nylon đó có trong túi quần của đối tượng. Đối tượng Dg khai không có mua ma túy và không nhận ma túy từ bị can Tr để đi giao cho đối tượng Ken. (BL: 129-131, 143-144)

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Tân Bình, bị can T T T Tr ban đầu khai nhận: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 10/6/2020 có đối tượng tên Ken (không rõ lại lịch) gọi điện thoại cho bị can Tr để hỏi mua 01 gói ma túy với giá 2.000.000 đồng, hẹn giao dịch tại khách sạn Châu Thiên Tứ, số 07 Trần Văn Hoàng, Phường 9, quận Tân Bình. Bị can Tr lấy gói ma túy rồi kêu đối tượng Dg lên phòng, bị can Tr giao gói ma túy cho đối tượng Dg để mang đến điểm hẹn bán cho đối tượng Ken, nhận tiền đưa lại cho bị can Tr, tiền công mà bị can Tr trả cho đối tượng Dg là 100.000 đồng. Bị can Tr khai đây là lần duy nhất bị can Tr đưa ma túy cho đối tượng Dg đi giao cho khách. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, bị can Trang thay đổi lời khai, phủ nhận toàn bộ lời khai ban đầu, bị can Tr khai: Nhà số XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X là do bị can Tr thuê để ở cùng với 03 đứa con gái nhỏ. Bị can Tr có thuê người giúp việc tên là Lan và có cho bà Lan cùng con trai của bà Lan tên là Dương ở dưới phòng khách. Ngoài ra, bị can Tr có bạn trai tên là T Q B cũng thường xuyên tới thăm bị can Tr. Bị can Tr bắt đầu sử dụng ma túy đá khoảng 01 tháng trước khi bị bắt. Nguồn ma túy mà bị can Tr sử dụng là do bạn bè xã hội (không rõ lai lịch) cho bị can hoặc do bị can mua từ bạn bè xã hội (không rõ lai lịch), với giá 2.000.000 triệu đồng/gói có trọng lượng khoảng 01 gam. Bị can Tr khai sử dụng ma túy một mình, không sử dụng chung cùng với ai. Bị can Tr khai không bán ma túy. Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 10/6/2020, bị can Tr đang ngủ tại phòng tại lầu 1, cạnh cầu thang nhà trọ do bị can Tr thuê, tại số XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X, thì Công an đến kiểm tra và bắt quả tang bị can Tr giấu gói nylon chứa bột màu xanh là ma túy do bạn ngoài xã hội của bị can Tr cho. Bị can Trang cất giữ ma túy để sử dụng. Đối với 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET bên trong có 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu là của bạn xã hội của bị can Tr tên Bá (không rõ lai lịch). Sáng ngày 10/6/2020, đối tượng Bá (không rõ lai lịch) ghé đến phòng của bị can Tr và vứt 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET tại phòng Trang vì đối tượng Bá nói không phải là ma túy. Bị can Tr không thừa nhận việc có bán ma túy, không có đưa ma túy cho đối tượng Dg để giao cho đối tượng Ken. Bị can Tr khai không quen biết ai tên Ken. Khi Công an đưa bị can Tr về trụ sở làm việc có đối tượng Dg và cho bị can Tr xem gói nylon chứa chất tinh thể thu giữ của đối tượng Dg thì bị can Tr biết chất tinh thể trên không phải ma túy đá vì bị can Tr sử dụng ma túy đá nên bị can Tr biết rõ đặc điểm ma túy. (BL: 137-138; 147-150; 155-156; 159-160; 168-170; 174-175)

Đối tượng T Q B khai: Đối tượng B là bạn của đối tượng Dg và là bạn trai của bị can Tr, quen nhau hơn một tháng nay. Đối tượng B thường xuyên đến nhà của bị can Tr chơi. Vào khoảng 14 giờ 15 phút ngày 10/6/2020, đối tượng B đang ngủ trong phòng của bị can Tr cùng với bị can Tr thì Công an vào kiểm tra và phát hiện bị can Tr có cất giấu ma túy trong phòng ngủ. Ban đầu, đối tượng B khai có nhìn thấy bị can Tr đưa 01 gói nylon cho đối tượng Dg mang đi nhưng đi đâu thì đối tượng B không biết. Đối tượng B nghi là ma túy do bị can Tr đưa cho đối tượng Dg mang đi bán. Do đối tượng B không tham gia mua bán ma túy với bị can Tr nên đối tượng B không biết rõ hoạt động mua bán ma túy của bị can Tr. Sau đó, đối tượng B phủ nhận lời khai ban đầu và khai không biết bị can Tr cất trữ ma túy trong phòng ngủ; đối tượng B khai không thấy bị can Tr đưa ma túy cho đối tượng Dg; ban đầu do đối tượng B mới bị phê ma túy và hoảng loạn nên khai không đúng (BL: 133-136, 166-167)

Cơ quan Điều tra Công an quận Tân Bình tiến hành xét nghiệm y khoa, kết quả xác định bị can Tr, đối tượng Dg và đối tượng B đều dương tính với ma túy tổng hợp. Do đối tượng N H H Dg không có nơi cư trú ổn định nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã giao đối tượng Dg cùng với đồ vật thu giữ của đối tượng Dg gồm 01 điện thoại di động hiệu Samsung, 01 xe gắn máy biển số 59P1-41070 cho Công an Phường 9, quận Tân Bình xử lý theo thẩm quyền. Công an Phường 9, quận Tân Bình đã lập hồ sơ đưa đối tượng Dg vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Nghị định 221/2013/CP (BL: 107-108). Đối với đối tượng T Q B có có nơi cư trú ổn định, có đơn bảo lãnh của gia đình nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã giao Bảo cho gia đình quản lý. (BL 108 b)

Ngày 09/9/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình ra quyết định chuyển vụ án hình sự để điều tra theo thẩm quyền, với nhận định: Qua kết quả giám định cùng với lời khai của đối tượng Dg và bị can Tr thì gói nylon có chứa chất tinh thể thu giữ trong người của đối tượng Dg không phải là ma túy. Do bị can Tr và đối tượng Dg thường sử dụng ma túy đá nên thấy vật chứng thu giữ không giống ma túy đá nhưng vẫn ký xác nhận là ma túy đá, vì nghĩ rằng sau khi giám định không phải ma túy đá thì không bị xử lý gì. Ngoài lời khai của bị can Tr và đối tượng Dg thì không có bất kỳ chứng cứ tài liệu nào khác chứng minh bị can Tr có hành vi mua bán trái phép chất ma túy; không sử dụng lời khai ban đầu của đối tượng Dg và bị can Tr là chứng cứ duy nhất để truy tố nên không có cơ sở xác định đối tượng Dg và bị can Tr có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Đối với bị can T T T Tr có hành vi tàng trữ trái phép 0,3297g là ma túy ở thể rắn, loại MDMA, với mục đích để sử dụng tại nhà số XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và Lệnh tạm giam đối với bị can Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đến ngày 11/9/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình giao hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 để xử lý theo thẩm quyền.

Ngày 06/11/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 11 có Bản kết luận điều tra số 108/ĐCSMT chuyển đến Viện kiểm sát đề nghị truy tố bị can T T T Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Ngày 24/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 có Quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung cho Cơ quan điều tra Công an Quận 11 phối hợp cùng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình để làm rõ số vấn đề trong đó có yêu cầu làm rõ về việc bị can Tr cùng đồng bọn có dấu hiệu của tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 11/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình có Công văn trả lời: Đối với nhận định của Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 về vụ án T T T Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” còn có dấu hiệu về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nếu trong quá trình truy tố mà phát hiện có căn cứ cho rằng hành vi của Trang và đồng bọn có hành vi phạm tội mua bán ma túy diễn ra trên địa bàn quận Tân Bình thì đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 ra Quyết định khởi tố bổ sung, tách vụ án giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình điều tra theo thẩm quyền hoặc thông báo kiến nghị đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình khởi tố điều tra theo thẩm quyền.

Sau khi tiếp nhận lại hồ sơ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tiến hành xác minh nơi cư trú của đối tượng T Q B tại địa chỉ Xx Võ Văn Kiệt, phường XX, Quận X, xác định đối tượng B có đăng ký hộ khẩu thường trú tại đây nhưng đã bán nhà đi đâu không rõ; đối tượng B cũng không còn tạm trú tại địa chỉ XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X nên không làm việc được với đối tượng B. (BL: 194-195)

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tiến hành cho đối tượng N H H Dg và bị can T T T Tr đối chất về các vấn đề ghi nhận tại các bản ghi lời khai ban đầu của hai đối tượng, làm rõ mâu thuẫn lời khai của bị can Tr và đối tượng Dg. Kết quả sau khi tiến hành đối chất, đối tượng N H H Dg không thừa nhận mang theo gói nylon chứa chất tinh thể không màu và không biết tên Ken là ai, không đi bán ma túy cho bị can Tr, do khi bị Công an quận Tân Bình bắt áp giải thì đối tượng Dg bị hoảng loạn và sợ nên ký vào các biên bản ghi lời khai trong ngày 10/6/2020. Bị can T T T Tr không thừa nhận việc đưa ma túy cho đối tượng Dg đi giao cho đối tượng Ken; bị can Tr thừa nhận có hên lạc với đối tượng Ken; bị can Tr không trả tiền công cho đối tượng Dg, do khi đó bị can Tr không bình tĩnh nên khai không đúng sự thật như trong các biên bản ghi lời khai vào ngày 10/6/2020. (BL: 216-221)

Vật chứng vụ án:

- 02 gói niêm phong (gói 2, gói 3) ghi vụ số 977 bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra.

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đã qua sử dụng của bị can Tr dùng liên lạc cá nhân.

- 01 bình hút không có nỏ thủy tinh, 01 bình hút có gắn nỏ thủy tinh, 02 cân điện tử, 01 cái kéo, 01 bình gas màu đen, đây là các dụng cụ sử dụng ma túy của bị can Tr.

- 01 hộp nhựa, 20 gói nylon bên trong không chứa gì. Bị can Tr dùng đựng hột đá là dụng cụ làm nail của bị can Tr.

- 01 đĩa DVD ghi âm, ghi hình lời khai của bị can T T T Tr, đối tượng N H H Dg và đối tượng T Q B (lưu kèm theo hồ sơ).

Tại Bản cáo trạng số 10/CT-VKSQ11 ngày 04/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị can T T T Tr tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo T T T Tr có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra Công an Quận 11 và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; đề nghị xử lý vật chứng như sau: Lưu vào hồ sơ vụ án vật chứng là một đĩa DVD ghi âm, ghi hình; tịch thu tiêu hủy hai gói niêm phong ghi vụ số 977, một bình hút không có nỏ thủy tinh, một bình hút có gắn nỏ thủy tinh, một cái kéo, một hộp nhựa, hai mươi gói nylon bên trong không chứa gì, một bình gas màu đen, hai cân điện tử, một giấy căn cước công dân photo của bị cáo T T T Tr; trả lại cho bị cáo T T T Tr một chiếc điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đã qua sử dụng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào lúc 14 giờ 20 phút ngày 10/6/2020, tại phòng lầu 1 nhà số XX Lê Thị Bạch Cát, Phường X, Quận X, bị cáo T T T Tr đã có hành vi cất giữ một gói nylon chứa chất tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng là 0,3297g (không phẩy ba hai chín bảy gam), loại MDMA.

Bị cáo T T T Tr khai nhận bản thân nghiện ma túy và cất giữ ma túy để sử dụng. Lời khai này phù hợp với kết quả xét nghiệm chất ma túy qua nước tiểu của bị cáo do Trạm Y tế Phường 9, quận Tân Bình thực hiện vào ngày 10/6/2020.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, biết rõ ma túy là chất gây nghiện mang tính độc hại cao bị Nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển. Song do nghiện ma túy và muốn thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất gây nghiện, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, chống lại chủ trương bài trừ tệ nạn ma túy của Nhà nước. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng trị và giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo tàng trữ chất ma túy là loại MDMA, có khối lượng là 0,3297g (không phẩy ba hai chín bảy gam) nên thuộc trường hợp phạm tội quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với vật chứng là một đĩa DVD ghi âm, ghi hình lời khai của bị cáo T T T Tr, đối tượng N H H Dg và đối tượng T Q B trong quá trình điều tra vụ án; căn cứ khoản 6 Điều 183 và khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 xử lý lưu vào hồ sơ vụ án là đúng quy định của pháp luật.

Đối với vật chứng là gói chất tinh thể không màu (gói 1) thu giữ khi bắt giữ đối tượng N H H Dg tại quận Tân Bình, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã xử lý bàn giao lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình để tiếp tục điều tra làm rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Đối với vật chứng là hai gói niêm phong (gói 2, gói 3) ghi vụ số 977, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra, bên trong có chứa chất ma túy còn lại sau giám định (gói 3) và chứa chất khác (gói 2) là vật cấm tàng trữ; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tịch thu, tiêu hủy.

Đối với vật chứng là một bình hút không có nỏ thủy tinh, một bình hút có gắn nỏ thủy tinh, một cái kéo, một hộp nhựa, hai mươi gói nylon bên trong không chứa gì, một bình gas màu đen, một giấy căn cước công dân photo của bị cáo T T T Tr, là dụng cụ bị cáo dùng để sử dụng ma túy và sử dụng vào việc khác nhưng không còn giá trị sử dụng; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tịch thu, tiêu hủy.

Đối với vật chứng là hai cân điện tử là dụng cụ dùng để phạm tội nhưng bị cáo không thừa nhận và khai là dùng để cân bột làm móng tay, bị cáo không dùng cần để phân chia mua bán ma túy; tuy nhiên, bị cáo không đồng ý nhận lại tài sản; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử giải quyết tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với vật chứng là một chiếc điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của bị cáo Tr. Bị cáo không sử dụng tài sản trên vào việc phạm tội; căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét giải quyết trả lại cho bị cáo.

[5] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo T T T Tr, điều tra viên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 được phân công điều tra, kiểm sát giải quyết vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên. Do đó, có cơ sở để xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về xem xét dấu hiệu của hành vi mua bán trái phép chất ma túy:

Ban đầu bị cáo T T T Tr và đối tượng N H H Dg khai nhận có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng sau đó thay đổi lời khai, không thừa nhận có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã cho bị cáo và đối tượng N H H Dg đối chất nhưng không làm rõ được mâu thuẫn lời khai của bị cáo Tr và đối tượng Dg. Mặc dù quá trình điều tra, Công an đã thu giữ tại nơi cư trú của bị cáo được hai cân điện tử là loại dụng cụ có thể được sử dụng để phân chia, bán ma túy nhưng bị cáo không thừa nhận dùng để mua bán ma túy mà để cân bột làm móng tay; đồng thời, Cơ quan Cảnh sát điều tra không chứng minh được bị cáo đã sử dụng dụng cụ trên để phân chia, bán ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng không xác định được lai lịch của đối tượng mua ma túy của bị cáo Tr có tên gọi là Ken, không chứng minh được đối tượng Ken và bị cáo Tr có hên lạc với nhau. Ngoài các lời khai ban đầu của bị cáo Tr và đối tượng Dg thì Cơ quan Cảnh sát điều tra không có chứng cứ nào khác chứng minh được bị cáo và đối tượng N H H Dg có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 24/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã có quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng Cơ quan Cảnh sát điều tra không thể điều tra xác định được bị cáo Tr và đối tượng Dg có hành vi mua bán trái phép chất ma túy hay không. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở để tiếp tục hoàn trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã có văn bản yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công Quận 11 phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình tiếp tục điều tra làm rõ về hành vi mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn quận Tân Bình của bị cáo Tr và đối tượng Dg; tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã từ chối tiếp nhận. Để nhằm tránh bỏ lọt tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 tiếp tục đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 kiến nghị với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền. Hội đồng xét xử xét thấy Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã xử lý đúng quy định; trường hợp sau khi truy xét, làm rõ, nếu phát hiện tội phạm mua bán trái phép chất ma túy sẽ xử lý sau.

[7] Về xem xét vai trò, trách nhiệm của các đối tượng có hên quan trong vụ án:

Đối với đối tượng tên Ken mà theo lời khai ban đầu của bị cáo Tr là người đã có hành vi hên lạc mua ma túy (nhưng sau đó bị cáo không thừa nhận có liên lạc với đối tượng Ken), do không xác định được lai lịch của đối tượng nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm là có căn cứ; khi điều tra, truy xét được sẽ xử lý sau.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Trang, hiện chưa rõ lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, xử lý sau.

Đối với đối tượng tên Bá là người đã mang bao thuốc lá JET, bên trong có một gói nylon chứa chất tinh thể, do không xác định được lai lịch của đối tượng nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm là có căn cứ; khi điều tra, truy xét được sẽ xử lý sau.

Đối tượng N H H Dg ban đầu khai nhận được bị cáo Tr đưa ma túy để mang đi giao cho khách nhưng sau đó đối tượng Dg không thừa nhận; gói chất tinh thể thu giữ của đối tượng không có chứa chất ma túy. Ngoài lời khai ban đầu của đối tượng Dg và bị cáo Tr thì không có chứng cứ nào khác chứng minh đối tượng Dg và bị cáo Tr có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên không có cơ sở để truy tố đối tượng. Tuy nhiên, qua xét nghiệm thì đối tượng Dg có kết quả dương tính với chất ma túy nên Công an Phường 9, quận Tân Bình đã xử lý lập hồ sơ đưa đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Hội đồng xét xử xét thấy Công an Phường 9, quận Tân Bình đã xử lý đúng quy định nên không xem xét lại.

Đối với đối tượng T Q B là bạn của bị cáo T T T Tr, do Cơ quan Cảnh sát điều tra không chứng minh được đối tượng B biết bị cáo Tr có cất giấu ma túy hay có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên không có cơ sở để xử lý trách nhiệm hình sự đối với đối tượng. Tuy nhiên, qua xét nghiệm thì đối tượng B có kết quả dương tính với chất ma túy và do đối tượng có nơi cư trú ổn định và có đơn bảo lãnh của gia đình nên Công an Phường 9, quận Tân Bình đã xử lý giao đối tượng B cho gia đình quản lý. Hội đồng xét xử xét thấy Công an Phường 9, quận Tân Bình đã xử lý đúng quy định nên không xem xét lại.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 50; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo T T T Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo T T T Tr 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/6/2020.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106, Điều 183, Điều 189 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Lưu vào hồ sơ vụ án vật chứng là một đĩa DVD ghi âm, ghi hình lời khai của bị cáo T T T Tr, đối tượng N H H Dg và đối tượng T Q B.

Tịch thu tiêu hủy hai gói niêm phong ghi vụ số 977, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra sau giám định (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 138/LNK ngày 03/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).

Tịch thu tiêu hủy một bình hút không có nỏ thủy tinh, một bình hút có gắn nỏ thủy tinh, một cái kéo, một hộp nhựa, hai mươi gói nylon bên trong không chứa gì, một bình gas màu đen, một giấy căn cước công dân photo của bị cáo T T T Tr (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 138/LNK ngày 03/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hai cân điện tử (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 138/LNK ngày 03/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).

Trả lại cho bị cáo T T T Tr một chiếc điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đã qua sử dụng (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 138/LNK ngày 03/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2021/HS-ST ngày 05/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;