Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 147/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2020 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số: 05/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Chu Thị T, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn D, xã T, huyện U, Thành Phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Anh Trần Đắc Q, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn 3, xã T, huyện L, tỉnh Hà Nam.

Tại phiên tòa: Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Q vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/9/2020 bản tự khai, lời khai của nguyên đơn chị Chu Thị Trang trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Chu Thị T và anh Trần Đắc Q lấy nhau hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện U, thành phố Hà Nội vào ngày 25/7/2019, nhưng anh chị vẫn chưa tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 12/2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do anh Q thường xuyên chơi điện tử mà không tu chí làm ăn làm ảnh hưởng đến cuộc sống và kinh tế gia đình.

Không những thế, khi chị T mở cửa hàng làm tóc, chị cắt tóc cho khách hàng là đàn ông thì anh Q còn có thái độ ghen tuông, không hài lòng, anh Q mắng chửi chị nên chị cảm thấy chán nản, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc . Trong cuộc sống hằng ngày, anh Q không quan tâm, không tôn trọng chị nên vợ chồng chị thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau. Từ ngày 28/12/2019 (âm lịch) vợ chồng chị sống ly thân, không ai quan tâm gì đến nhau. Nay chị xác định không còn tình cảm gì với anh Q nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Q.

- Về con: Chị T xác định vợ chồng không có con chung, con riêng, con nuôi nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

- Về tài sản, công nợ và các vấn đề khác: Chị T xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ nhưng anh Q không đến Tòa án làm việc nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được.

Tại biên bản làm việc ngày 25/02/2021, ông Trần Đắc N (là bố đẻ của anh Q) cung cấp: Năm 2019 anh Q có nói với gia đình tổ chức cưới cho anh Q, chị T nhưng gia đình chưa đồng ý vì muốn anh chị tìm hiểu nhau kỹ hơn. Đến khoảng tháng 5/2020 khi chị T về gia đình ông mượn giấy tờ để làm thủ tục ly hôn với anh Q thì gia đình ông mới biết anh chị đã đăng ký kết hôn tại xã T, huyện U, thành phố Hà Nội. Khi chị T làm thủ tục ly hôn thì anh Q vẫn còn ở nhà, ông đã nhận Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập của Toà án, do lúc đó anh Q không có nhà nên ông đã gọi điện thông báo ngay cho anh Q nhưng anh Q không có ý kiến gì. Về việc chị T xin ly hôn anh Q do anh chị tự quyết định và Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật; anh chị cũng chưa có con, không đó ng góp tài sản gì với gia đình nên ông N không có ý kiến gì.

* Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn chị Chu Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân có quan điểm như sau:

+ Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng quy định pháp luật. Riêng bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật, vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp, phiên toà xét xử vụ án.

+ Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị xử ly hôn giữa chị Chu Thị T và anh Trần Đắc Q. Về con, tài sản, công nợ và các vấn đề khác: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của chị Chu Thị T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự. Tuy nhiên bị đơn anh Trần Đắc Q không tham gia tố tụng, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai; tại phiên toà nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Chu Thị T và anh Trần Đắc Q là tự nguyện và hợp pháp. Chị T, anh Q chưa tổ chức lễ cưới nhưng quá trình chung sống với nhau phát sinh nhiều mâu thuẫn trong lối sống, sinh hoạt hằng ngày dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, cãi chửi nhau. Chị T và anh Q đã sống ly thân từ cuối năm 2019 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến nhau. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, anh Q đã biết việc chị T xin ly hôn, anh Q cũng được gia đình thông báo việc Toà án thụ lý giải quyết nhưng anh Q không đến Tòa án làm việc, không có thiện chí để hòa giải cho vợ chồng về đoàn tụ, điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xét xử cho chị Chu Thị T ly hôn với anh Trần Đắc Q là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Chu Thị T xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ và các vấn đề khác: Chị Chu Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Chu Thị T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 24 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Chu Thị T và anh Trần Đắc Q.

2. Về án phí sơ thẩm: Chị Chu Thị T phải nộp toàn bộ tiền án phí ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, đối trừ tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số AA/2010/0003787 ngày 02 tháng 11 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Chị Chu Thị T đã nộp đủ.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;