Bản án 10/2021/DS-ST ngày 27/01/2021 về tranh chấp nợ hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 10/2021/DS-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI

Trong ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 190/2020/TLST-DS, ngày 26/11/2020 về việc “Tranh chấp Nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2021/QĐXXST-DS, ngày 14 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Huỳnh Đ – sinh năm 1992 (có mặt); Địa chỉ: Ấp 1, xã Vĩnh HHB, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Bà Võ Thị Phương T – sinh năm 1980 (có mặt). Địa chỉ: Ấp 1, xã Vĩnh HHB, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/11/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn Anh Nguyễn Huỳnh Đ trình bày:

Anh tham gia chơi hụi của bà Võ Thị Phương T vào năm 2015, anh tham gia chơi 05 chân hụi loại 3.000.000 đồng/chân trong 02 dây hụi do bà Võ Thị Phương T làm chủ, anh đã hốt 02 chân còn lại 03 chưa mãn nhưng bà T tuyên bố ngưng hụi, cụ thể các dây hụi đã lâu anh không còn nhớ vì đã bỏ giấy hụi. Khi bà T tuyên bố bể hụi anh tính theo số tiền hụi chết tổng cộng tiền hụi của anh là 108.000.000đ, sau đó giữa anh và bà T tính toán trừ cấn và thống nhất với bà T tính theo hụi vốn bà T còn nợ anh số tiền 43.000.000đ. Bà T có viết biên nhận giao cho anh giữ và hứa trả dần nhưng chỉ hứa suông đến nay bà T vẫn chưa trả tiền cho anh.

Tại phiên tòa, anh Đ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Võ Thị Phương T phải trả cho anh số tiền hụi còn lại tổng cộng là 43.000.000đ (Bốn mươi ba triệu đồng), trả đủ một lần, ngoài ra anh không yêu cầu gì thêm.

Đối với yêu cầu khởi kiện nêu trên của nguyên đơn, tại Bản tự khai ngày 22/12/2020, Biên bản hòa giải ngày 05/01/2021 bị đơn bà Võ Thị Phương T trình bày:

Bà T thừa nhận bà có làm chủ hụi và anh Nguyễn Huỳnh Đ có tham gia chơi hụi của bà (anh Đ là hụi viên), tên trong giấy hụi ghi tên bà X là chị ruột của anh Đ nhưng quá trình chơi hụi, khui hụi, đóng hụi và hốt hụi đều do anh Đ trực tiếp giao kết với bà. Sau khi bể hụi bà và anh Đ có chốt nợ với nhau và bà có viết biên nhận giao cho anh Đ giữ, bà còn nợ anh Đ số tiền hụi vốn tổng cộng là 43.000.000đ (Bốn mươi ba triệu đồng). Nhưng bà T trình bày hiện tại hoàn cảnh bà đang gặp khó khăn, nợ nần nhiều người nên bà không có khả năng trả nợ một lần theo yêu cầu của anh Đ, bà T xin được trả dần số nợ trên mỗi tháng là 100.000đ (một trăm nghìn đồng) trả đến khi nào dứt số nợ 43.000.000đ (bốn mươi ba triệu đồng) thì thôi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nên anh Nguyễn Huỳnh Đ khởi kiện bà Võ Thị Phương T về việc “Tranh chấp nợ hụi” được Tòa án thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 3 Điều 26 và Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[2] Về nội dung: Thời gian vào năm 2015, giữa anh Nguyễn Huỳnh Đ và bà Võ Thị Phương T có thỏa thuận góp hụi với nhau, bà T làm chủ hụi, anh Đ là hụi viên, anh Đ tham gia chơi 05 chân hụi loại 3.000.000 đồng/chân trong 02 dây hụi do bà T làm chủ, anh đã hốt 02 chân còn lại 03 chưa mãn nhưng bà T tuyên bố ngưng hụi, cụ thể các dây hụi đã lâu anh Đ và bà T đều trình bày không còn nhớ vì đã bỏ giấy hụi. Anh Đ và bà T thống nhất xác định khi bắt đầu chơi hụi với nhau thì tên trong giấy hụi ghi chị X (là chị ruột của anh Đ) nhưng quá trình chơi hụi, khui hụi, đóng hụi và hốt hụi đều do anh Đ trực tiếp giao kết với bà T, do đó anh Đ và bà T thống nhất tiền hụi trên sẽ giải quyết cùng anh Đ không liên quan đến bà X. Quá trình chơi hụi, anh Đ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ góp hụi của 05 chân hụi trên cho đến khi bà T ngưng xổ hụi. Tuy nhiên, từ khi ngưng xổ hụi đến nay, bà T vẫn chưa giao tiền hụi cho anh Đ nên anh Đ khởi kiện đòi lại số tiền nợ hụi bà T còn nợ anh là 43.000.000đ (Bốn mươi ba triệu đồng). Xét về nội dung và hình thức hợp đồng góp hụi như trên giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp theo Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015 nên phát sinh hiệu lực thi hành.

[3] Xét yêu cầu của anh Đ buộc bà T phải trả số tiền nợ hụi là 43.000.000đ. Quá trình giải quyết vụ án, anh Đ và bà T đều thống nhất với nhau số tiền nợ hụi bà T còn nợ anh Đ là 43.000.000đ. Anh Đ yêu cầu bà T phải trả đủ cho anh số nợ trên một lần, bà T thì cho rằng bà thiếu nợ nhiều người nên không có khả năng trả nợ một lần theo yêu cầu của anh Đ mà bà T xin được trả dần số nợ trên mỗi tháng là 100.000đ (một trăm nghìn đồng) trả đến khi nào dứt số nợ 43.000.000đ (bốn mươi ba triệu đồng) thì thôi. HĐXX thấy rằng, bà T không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao tiền hụi theo đúng cam kết là đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 18 Nghị định 19/2009/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường và yêu cầu xin được trả nợ dần của bà cũng không được anh Đ đồng ý cho nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đ và buộc bà T có trách nhiệm thanh toán số nợ hụi này cho anh Đ là phù hợp.

[4] Về án phí: Bà Võ Thị Phương T phải chịu án phí dân sự có giá ngạch là 2.150.000đ (43.000.000đ x 5%) do bà có lỗi trong vụ kiện này.

Anh Nguyễn Huỳnh Đ được nhận lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 1.075.000đ (Một triệu, không trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0009579 ngày 26/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 471 và Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 18, Điều 23 Nghị định 19/2009/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Huỳnh Đ.

Buộc bà Võ Thị Phương T có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Huỳnh Đ số tiền nợ hụi còn lại tổng cộng là 43.000.000đ (Bốn mươi ba triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của anh Đoàn cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bà T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Bà Võ Thị Phương T phải chịu án phí dân sự có giá ngạch là 2.150.000đ (Hai triệu, một trăm năm mươi nghìn đồng).

Anh Nguyễn Huỳnh Đ được nhận lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 1.075.000đ (Một triệu, không trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0009579 ngày 26/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao.

3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 27/01/2021.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 9 Luật thi hành án dân sự và các Điều 7, 7a, 7b Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2021/DS-ST ngày 27/01/2021 về tranh chấp nợ hụi

Số hiệu:10/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;