Bản án 10/2021/DS-ST ngày 24/09/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 10/2021/DS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 73/2021/TLST- DS ngày 18 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-DS ngày 12/8/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2021/QĐST – DS ngày 30/8/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hải Đ, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông – có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Bùi Xuân S, sinh năm 1990 và chị Vũ Thị Th, sinh năm 1996; địa chỉ: Bon N’Drung, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông – vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Anh Nguyễn Hải Đ trình bày:

Anh Đ có cho anh Bùi Xuân S, chị Vũ Thị Th vay tiền nhiều lần, cụ thể:

Lần 1: Ngày 20/9/2018, cho anh S, chị Th vay số tiền 330.000.000 đồng; hai bên có lập giấy mượn tiền, anh S, chị Th trực tiếp ký và ghi họ tên trên giấy; anh Đ đã giao đủ số tiền 330.000.000 đồng cho anh S, chị Th; thời hạn vay từ ngày 20/9/2018 đến ngày 11/10/2018. Hai bên có thỏa thuận lãi suất 2%/tháng. Đến hạn trả nợ, ngày 10/11/2018, anh S, chị Th đã đóng lãi trong hạn nhưng không trả tiền nợ gốc nên anh Đ gia hạn trả nợ cho anh S, chị Th đến ngày 10/12/2018. Đến ngày 10/12/2018, anh S, chị Th chỉ trả được tiền lãi, không chịu trả số tiền gốc 330.000.000 đồng. Khi nhận tiền anh Đ chỉ ghi chú trên giấy vay và do thời gian đã lâu nên anh không nhớ rõ số tiền lãi anh S, chị Th đã trả là bao nhiêu.

Lần 2: Ngày 10/10/2019, cho anh S, chị Th vay số tiền 90.000.000 đồng; hai bên có lập giấy mượn tiền, anh S, chị Th trực tiếp ký và ghi họ tên trên giấy; anh Đ đã giao đủ số tiền 90.000.000 đồng cho anh S, chị Th; thời hạn vay là từ ngày 10/10/2019 đến ngày 10/11/2019. Hai bên có thỏa thuận lãi suất 2%/tháng. Đến hạn trả nợ trên, anh Đ đã yêu cầu nhiều lần nhưng anh S, chị Th cố tình không trả tiền lãi và gốc.

Do đó, anh Đ làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh S, chị Th phải trả lại số tiền gốc 330.000.000 đồng vay ngày 20/9/2018; 90.000.000 vay ngày 10/10/2019 và tiền lãi đến khi giải quyết xong vụ án.

Đối với tiền lãi trong hạn của 02 hợp đồng; hai bên có thỏa thuận là 2%/tháng nhưng do sơ suất nên anh Đ không ghi trong hợp đồng, anh S chị Th đã trả được 01 phần; do đó anh Đ không yêu cầu anh S, chị Th phải trả lãi trong hạn chỉ yêu cầu anh S, chị Th phải trả lãi suất chậm trả tiền gốc cụ thể như sau:

- Tiền lãi suất chậm trả số tiền 330.000.000 đồng từ ngày 11/12/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 10%/năm.

- Tiền lãi suất chậm trả số tiền 90.000.000 đồng từ ngày 11/11/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 10%/năm.

Đối với số tiền gốc 330.000.000 đồng và 90.000.000 đồng mà anh Đ đã cho anh S, chị Th vay, đây là khoản tiền riêng của anh Đ, không liên quan đến chị Vũ Thanh Th – là vợ của anh Đ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã xác minh tại chính quyền địa phương xác định: Anh Bùi Xuân S, chị Vũ Thị Th có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Bon N’Drung, xã Đ, huyện T, chưa chuyển hộ khẩu đi đâu nhưng hiện nay không có mặt tại địa phương. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng nhưng bị đơn anh S, chị Th không đến Tòa án làm việc mà không có lý do; không nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và không có ý kiến đối với nội dung vụ án. Do đó, Tòa án huyện T giải quyết vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức phát biểu ý kiến:

- Toà án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về người tham gia tố tụng và thu thập chứng cứ: Toà án xác định đúng người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng đúng quy định, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật.

- Tại phiên toà sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đầy đủ đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn từ khi thụ lý vụ án đã được triệu tập nhiều lần nhưng không hợp tác; tại phiên tòa vẫn vắng mặt không do đó chưa thực hiện đầy đủ các quy định tại Điều 70; Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Anh Nguyễn Hải Đ cho anh S, chị Th vay tiền 02 lần; lần 1, ngày 20/9/2018, vay số tiền 330.000.000 đồng, thời hạn trả nợ vào ngày 10/12/2018; lần 2, ngày 10/10/2019, vay số tiền 90.000.000 đồng, thời hạn trả nợ; có thỏa thuận lãi suất nhưng quá trình giải quyết vụ án, anh Đ chỉ yêu cầu anh S, chị Th phải trả tiền lãi chậm trả tiền đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 10%/năm. Quá trình thực hiện hợp đồng, anh S, chị Th đã vi phạm nghĩa vụ, không trả gốc như thỏa thuận; bỏ đi khỏi địa phương không thông báo cho bên cho vay. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91; Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng khoản 1 Điều 351, Điều 357, Điều 463, Điều 466, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Anh Nguyễn Hải Đ, buộc anh Bùi Xuân S, chị Vũ Thị Th phải trả tổng số tiền 528.879.452 đồng cho Anh Nguyễn Hải Đ, bao gồm:

- Tiền nợ gốc: 420.000.000 đồng.

- Tiền lãi suất do chậm trả tiền: 92.038.356 đồng và 16.841.096 đồng.

Về án phí: Anh Bùi Xuân S, chị Vũ Thị Th phải chịu 25.155.320 đồng án phí dân sự sơ thẩm; trả lại cho Anh Nguyễn Hải Đ 14.120.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001500 ngày 18/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết vào quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Tại đơn khởi kiện, Anh Nguyễn Hải Đ yêu cầu Tòa án buộc anh Bùi Xuân S, chị Vũ Thị Th phải trả số tiền gốc 330.000.000 đồng và 90.000.000 đồng đã vay và tiền lãi do chậm trả tiền, đây là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh S, chị Th có đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Bon N’Drung, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông, theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông.

[2]. Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, qua xác minh tại chính quyền địa phương xác định: Anh S, chị Th chưa chuyển hộ khẩu đi đâu nhưng hiện nay không có mặt tại địa phương; Tòa án đã triệu tập và tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng bị đơn anh S, chị Th không đến Tòa án làm việc; Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho anh S, chị Th theo thủ tục chung nhưng bị đơn anh S, chị Th không hợp tác, vắng mặt tại địa phương, không đến Tòa án làm việc mà không có lý do; không nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và không có ý kiến đối với nội dung vụ án, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa ngày 30/8/2021 và phiên tòa hôm nay, anh S, chị Th đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do; nguyên đơn anh Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự

[3]. Về nội dung:

[3.1]. Ngày 20/9/2018, Anh Nguyễn Hải Đ và anh Bùi Xuân S, chị Vũ Thị Th ký kết hợp đồng vay tài sản, với nội dung: “anh S, chị Th vay anh Đ số tiền 330.000.000 đồng; thời hạn trả nợ là ngày 11/10/2018”; quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên tiếp tục gia hạn thời hạn trả nợ đến ngày 10/12/2018.

Ngày 10/10/2019, anh Đ và anh S, chị Th tiếp tục ký kết hợp đồng vay tài sản, với nội dung: “anh S, chị Th vay anh Đ số tiền 90.000.000 đồng; thời hạn trả nợ là ngày 10/11/2019” Xét hợp đồng vay tài sản giữa anh Đ với anh S, chị Th được lập thành văn bản, có chữ ký xác nhận của các bên; quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng các đương sự có đủ năng lực hành vi dân sự; tự nguyện ký kết, thỏa thuận hợp đồng nên giao dịch này là hợp pháp và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định tại Điều 117, Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015. Quá trình thực hiện giao dịch, anh S, chị Th không trả gốc như đã cam kết nên đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015.

[3.2]. Khi giao kết hợp đồng, theo anh Đ trình bày: Hai bên có thỏa thuận lãi suất nhưng quá trình giải quyết vụ án, anh Đ chỉ yêu cầu anh S, chị Th phải trả lãi suất chậm trả tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 10%/năm. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo giấy mượn tiền ngày 20/9/2018 thể hiện: Thời hạn trả nợ là ngày 11/10/2018, hai bên tiếp tục gia hạn đến ngày 10/12/2018. Theo giấy mượn tiền ngày 10/10/2019 thể hiện: Thời hạn trả nợ là ngày 10/11/2019. Tuy nhiên, đến hạn trả nợ, anh S, chị Th không trả tiền như cam kết nên phải trả cho anh Đ lãi suất do chậm trả tiền theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự, cụ thể như sau:

- Tiền lãi suất chậm trả số tiền 330.000.000 đồng từ ngày 11/12/2018 đến ngày 24/9/2021 với mức lãi suất 10%/năm: 330.000.000 x 10% x (1018 ngày/365) = 92.038.356 đồng.

- Tiền lãi suất chậm trả số tiền 90.000.000 đồng từ ngày 11/11/2019 đến ngày 24/9/2021 với mức lãi suất 10%/năm: 90.000.000 x 10% x (638 ngày/365) = 16.841.096 đồng.

[4]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Anh Nguyễn Hải Đ. Buộc anh Bùi Xuân S, chị Vũ Thị Th phải trả cho anh Đ là tổng số tiền là 528.879.452 đồng, trong đó gồm: 330.000.000 đồng và 90.000.000 đồng tiền gốc; 92.038.356 đồng và 16.841.096 đồng tiền lãi suất do chậm trả tiền. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Anh Nguyễn Hải Đ được chấp nhận nên anh Bùi Xuân S, chị Vũ Thị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 25.155.000 đồng. Trả lại cho Anh Nguyễn Hải Đ 14.120.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001500 ngày 18/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

[6] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng Điều 117; khoản 1 Điều 351; khoản 2 Điều 357; Điều 463, Điều 466; Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Anh Nguyễn Hải Đ. Buộc anh Bùi Xuân S, chị Vũ Thị Th phải trả cho Anh Nguyễn Hải Đ số tiền 528.879.452 đồng (Năm trăm hai mươi tám triệu tám trăm bảy mươi chín nghìn bốn trăm năm mươi hai đồng); trong đó gồm: 330.000.000 đồng và 90.000.000 đồng tiền gốc; 92.038.356 đồng và 16.841.096 đồng tiền lãi suất do chậm trả tiền.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí: Anh Bùi Xuân S, chị Vũ Thị Th phải nộp 25.155.000 đồng (hai mươi lăm triệu một trăm năm mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Hoàn trả cho Anh Nguyễn Hải Đ 14.120.000 đồng (mười bốn triệu một trăm hai mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001500 ngày 18/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2021/DS-ST ngày 24/09/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản 

Số hiệu:10/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;