Bản án 10/2020/HS-ST ngày 17/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 17/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 3 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2020/TLST-HS ngày16 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2019 và Thông báo thay đổi lịch xét xử số 03/TB-TA ngày 04 tháng 3 năm 2020 đối với các bị cáo:

Đoàn Thị P, sinh năm 1993 tại Hải Phòng; ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn T và bà Đỗ Thị A; có chồng là Vũ Như C và 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 05 tháng 8 năm 2019, tạm giam ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại Trại giam Công an thành phố Hải Phòng; có mặt Lê Văn S, sinh năm 1990 tại Hải Phòng; ĐKHKTT và nơi cư trú: Tổ dân phố 2, thị trấn An Dương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị T1; có vợ là Kiều Thị Thu G và 01 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 05 tháng 8 năm 2019, tạm giam ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại Trại giam Công an thành phố Hải Phòng; có mặt Nguyễn Thế H, sinh năm 1991; ĐKHKTT và nơi cư trú: Số 43 An Lạc 2, phường S, quận H, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh H1 và bà Nguyễn Thị P; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 05 tháng 8 năm 2019, tạm giam ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại Trại giam Công an thành phố Hải Phòng; có mặt Nguyễn Trần S, sinh năm 1997; ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn Cách Thượng, xã Nam S, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc N và bà Nguyễn Thị H2; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam ngày 25 tháng 12 năm 2019 tại Trại giam Công an thành phố Hải Phòng; có mặt - Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trần S: Ông Tạ Ngọc B, Luật sư Công ty Luật TNHH B - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Khắc T2; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ 30 phút ngày 05 tháng 8 năm 2019, Tổ công tác Công an huyện An Dương kết hợp với Công an xã An Đồng tiến hành kiểm tra, phát hiện tại Phòng 201 nhà nghỉ N có 05 đối tượng gồm Đoàn Thị P, Lê Văn S, Nguyễn Thế H, Nguyễn Trần S và Nguyễn Khắc T3 đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu được bao gồm:

Thu giữ trên giường ngủ 01 túi nilon màu trắng, kích thước 02 cm x 02 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng theo Đoàn Thị P, Lê Văn S, Nguyễn Thế H, Nguyễn Trần S và Nguyễn Khắc T3 khai là ma túy; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 chai nhựa màu trắng, nắp chai màu xanh có đục 02 lỗ, 01 lỗ gắn coóng thủy tinh, trong lòng coóng bám dính tạp chất màu nâu, 01 lỗ gắn ống hút nhựa màu trắng xanh; 01 bật lửa ga; 01 laptop DELL, 01 đèn nháy RHD-10, 01 loa Bluetooth Model BS-12 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) của Đoàn Thị P 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1102 màu xanh đen đã qua sử dụng; 01 ví da màu đen và số tiền 12.000 đồng (mười hai nghìn đồng) của Nguyễn Khắc T3 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng – xám, model R8103 đã qua sử dụng và số tiền 29.000 đồng (hai mươi chin nghìn đồng) của Nguyễn Thế H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu vàng, Imei: 352002068165919 và số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) của Lê Văn S 01 thẻ ATM Vietcombank Connect 24hours số 9704366814155391014 mang tên Nguyễn Trần S của Nguyễn Trần S 01 thiết bị điện tử màu đen nhãn hiệu ALHVA; 01 USB màu đen nhãn hiệu Sony dung lượng 8GB lưu trữ hình ảnh camera do anh Lâm Trung H3, sinh năm 1992, địa chỉ: số 4, lô 38 khu tái định cư xi măng, S, quận H – là quản lý nhà nghỉ N giao nộp 01 Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, đại diện hộ kinh doanh là Nguyễn Thanh T4 – sinh năm 1965, địa chỉ: Số 10 T, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng do Lự Thị T5, sinh năm 1973, địa chỉ: Thôn V, xã A, huyên An Dương, thành phố Hải Phòng, là quản lý của nhà nghỉ N giao nộp.

Sau đó, tổ công tác đưa Đoàn Thị P, Lê Văn S, Nguyễn Thế H, Nguyễn Trần S và Nguyễn Khắc T3 và toàn bộ vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng gửi giám định.

Tại kết luận giám định số 423 ngày 09 tháng 8 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Mẫu tinh thể thu giữ của Đoàn Thị P, Lê Văn S, Nguyễn Thế H, Nguyễn Trần S và Nguyễn Khắc T3 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3913 gam, là loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra Đoàn Thị P, Lê Văn S, Nguyễn Thế H, Nguyễn Trần S và Nguyễn Khắc T3 khai nhận: Ngày 01 tháng 8 năm 2019, Nguyễn Thế H và Đoàn Thị P đến thuê phòng 201 nhà nghỉ N để nghỉ. Ngày 02 tháng 8 năm 2019, P đi xuống đường tàu T, quận L, Hải Phòng mua của một người phụ nữ không quen biết 200.000 đồng ma túy đá và một chiếc coóng thủy tinh kèm theo ống nhựa loại nhỏ về để làm bộ sử dụng ma túy với giá 50.000 đồng. P mang về phòng 201 nhưng do đau đầu nên không sử dụng, chỉ có H sử dụng. Tối ngày 03 tháng 8 năm 2019, Nguyễn Khắc T3 thuê phòng 203 của nhà nghỉ trên sau đó thì rủ S dến ở cùng. Một lúc sau, S đến và lên phòng 203. Tại đây, S biết H đang ở phòng 201 nên sang chơi. Khi sang phòng 201 thì S thấy có bộ dụng cụ sử dụng ma túy trên giường nên S đã sử dụng ma túy đến sang thì về phòng 203. Đêm ngày 04 tháng 8 năm 2019, H gọi S đến phòng 201 chơi. Một lúc sau S đến nhìn thấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy thì S hỏi “còn ma túy không”, H bảo hết rồi và bảo H3 (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) ở phòng 202 có bán ma túy. Sau đó S và H góp được 200.000 đồng rồi H sang phòng 202 mua ma túy về S, H, P cùng sử dụng. Khoảng 05 giờ sáng ngày 05 tháng 8 năm 2019, S sang phòng 201 và tham gia sử dụng ma túy cùng nhóm của H. S hỏi có loa không thì S về phòng 203 lấy máy tính và loa nghe nhạc sang phòng 201. Khoảng 10 giờ, H sang phòng 203 lấy 01 đèn LED rồi cùng T3 sang phòng 201. Sau khi sử dụng hết ma túy, S hỏi mọi người ở phòng còn ma túy chơi không thì P bảo tí bạn P bắn tiền thì có tiền mua ma túy và đồ ăn. Sau đó P hỏi ai có thẻ ATM thì cho P mượn. S bảo có và đọc số tài khoản 0031000324976 và mật khẩu cho P rồi đưa thẻ ATM cho H. P liên hệ với bạn và biết đã chuyển tiền thì P bảo H đi rút tiền để mua cơm và ma túy. H hỏi S "có biết chỗ nào mua ma túy không", S bảo "có" nên P bảo "Anh S đi mua nhé". Sau đó H đi rút 3.000.000 đồng từ tài khoản của S xong quay về nhà nghỉ N đón S rồi H và S đi taxi đến khu vực cổng làng V gặp đối tượng tên M (chưa rõ lai lịch, địa chỉ). S mua của M 01 gam ma túy đá đựng trong túi nilon với giá 500.000 đồng rồi H và S đi mua cơm và về phòng 201. Sau khi ăn cơm xong, S lấy gói ma túy ra rồi cho ma túy vào coóng rồi S, P, H, S, T3 cùng sử dụng. Lúc này, T3 thấy chiếc coóng bị gãy nên bảo ở phòng 203 có 01 chiếc và T3 về lấy mang sang phòng 201 đồng thời thay chiếc coóng mới vào còn chiếc coóng cũ H vứt vào sọt rác nhà vệ sinh. Số ma túy còn lại trong túi nilon để trên giường. Đến khoảng 16 giờ 30 phút lực lượng Công an kiểm tra và bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo Đoàn Thị P, Lê Văn S, Nguyễn Thế H và Nguyễn Trần S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Đoàn Thị P, Lê Văn S, Nguyễn Thế H và Nguyễn Trần S khai nhận như nội dung cáo trạng đã nêu.

Công bố lời khai của người làm chứng có nội dung như các bị cáo khai nhận tại phiên tòa.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo P từ 24 tháng đến 30 tháng tù, bị cáo H từ 18 đến 24 tháng tù, bị cáo S từ 15 đến 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo S từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 BLHS, Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư dán kín niêm phong, trong chứa ma túy còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 chai nhựa màu trắng, nắp màu xanh có đục 02 lỗ, 01 lỗ gắn coóng thủy tinh, 01 lỗ gắn ống hút nhựa màu trắng xanh; 01 bật lửa ga.

Trả lại cho bị cáo P số tiền 2.000.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án Trả lại cho bị cáo S số tiền 100.000 đồng, 01 điện thoại Nokia màu đen và 01 điện thoại Iphone 5 màu vàng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án Trả lại cho bị cáo H số tiền 29.000 đồng và 01 điện thoại Oppo màu trắng xám nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo S 01 thẻ Vietcombank connect 24h mang tên Nguyễn Trần S.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trần S phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo: Nhất trí tội danh và điều luật đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương đã truy tố và đề nghị áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo theo điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự và gia đình có người có công với Cách mạng theo khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo S. Ngoài ra, bị cáo S còn trẻ tuổi, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và không nghiêm trọng. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng hình phạt thấp nhất và cho bị cáo S được hưởng án treo theo quy định pháp luật về án treo và điều kiện được hưởng án treo được ghi nhận tại Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 2, Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP.

Khi nói lời nói sau cùng, các bị cáo đã ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội, tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

[2] Hội đồng xét xử xét thấy lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố Hải Phòng lập hồi 16 giờ 30 phút ngày 05 tháng 8 năm 2019, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định số 423/KLGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2019 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 05 tháng 8 năm 2019, tại phòng 201 nhà nghỉ N thuộc địa bàn thôn Minh, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, các bị cáo Đoàn Thị P, Nguyễn Thế H, Lê Văn S, Nguyễn Trần S đã có hành vi cất giấu trái phép 0,3913 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận, Hành vi cất giấu Methamphetamine trái phép nhằm mục đích để sử dụng của các bị cáo Đoàn Thị P, Nguyễn Thế H, Lê Văn S, Nguyễn Trần S đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3] Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm họa đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội này của các bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân: Các bị cáo Đoàn Thị P, Nguyễn Thế H, Lê Văn S, Nguyễn Trần S đều chưa có tiền án, tiền sự [5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Đoàn Thị P, Nguyễn Thế H, Lê Văn S, Nguyễn Trần S không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Đoàn Thị P, Nguyễn Thế H, Lê Văn S, Nguyễn Trần S khai báo thành khẩn nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự .

Bị cáo Đoàn Thị P có ông nội, bố đẻ là người có công với Cách mạng, bị cáo Nguyễn Thế H có bố đẻ là người có công với Cách Mạng, bị cáo Nguyễn Trần S có ông ngoại, bà nội là người có công với Cách mạng nên các bị cáo P, H, S được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2, Điều 51, Bộ luật Hình sự.

[7] Về phân hoá vai trò của các bị cáo trong vụ án: Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, không có tính tổ chức, Hội đồng xét xử đánh giá, phân hóa vai trò của các bị cáo trong vụ án như sau: Bị cáo Đoàn Thị P là người bỏ tiền ra để mua ma túy. Bị cáo S và H là người trực tiếp đi mua ma túy. Do vậy, vai trò của bị cáo P trong vụ án này cao hơn so với các bị cáo khác nên phải chịu mức hình phạt cao hơn so với các bị cáo còn lại, bị cáo S và bị cáo H đều là người thực hành tích cực, có vai trò ngang nhau nên phải chịu mức hình phạt ngang nhau. Đối với bị cáo S có hành vi cho bị cáo P mượn thẻ ATM để rút tiền mua ma túy nên vai trò của bị cáo là giúp sức, nên bị cáo phải chịu mức hình phạt thấp hơn so với các bị cáo S và H.

[8] Tại phiên tòa Luật sư bào chữa cho bị cáo S trình bày lời luận cứ bào chữa cho bị cáo S, nhât trí với tội danh và điều luật đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương đã truy tố và đề nghị áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo theo điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự và gia đình có người có công với Cách mạng theo khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo S. Ngoài ra, bị cáo S còn trẻ tuổi, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và không nghiêm trọng nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt thấp nhất và cho bị cáo S được hưởng án treo theo quy định pháp luật về án treo. Xét thấy vụ án đồng phạm có nhiều bị cáo tham gia, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Từ tội phạm về ma túy còn làm phát sinh ra nhiều tội phạm khác. Do vậy, việc ông Luật sư bào chữa cho bị cáo S đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án treo là không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Cần xử phạt bị cáo S hình phạt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo trở thành công dân có ích đồng thời cảnh báo, răn đe và phòng ngừa chung.

- Về các vấn đề khác:

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5, Điều 249 Bộ luật Hình sự, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, đồng xét xử xét thấy các bị cáo không có việc làm ổn định, hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bì thư dán kín niêm phong bên trong chứa số ma túy còn lại sau giám định và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy bao gồm:

01 chai nhựa màu trắng, nắp màu xanh có đục 02 lỗ, 01 lỗ gắn coóng thủy tinh, 01 lỗ gắn ống hút nhựa màu xanh; 01 bật lửa ga là vật chứng của vụ án không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo Đoàn Thị P 2.000.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế H 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng xám, model OPPO R8106 đã qua sử dụng và số tiền 29.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1102 màu xanh đen đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu vàng, Imei: 352002068165919, số tiền 100.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Trần S 01 thẻ ATM Vietcombank connect 24 hours số 9704366814155391014 mang tên Nguyễn Trần S Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại tài sản gồm 01 laptop màu đen nhãn hiệu DELL đã qua sử dụng, 01 đèn nháy RHD-10; 01 loa model BS-12; o1 điện thoại di động Nokia 1102 màu xanh đen đã qua sử dụng; 01 ví da màu đen và số tiền 12.000 đồng cho Nguyễn Khắc T3; trả lại 01 thiết bị điện tử màu đen nhãn hiệu ALHVA; 01 USB màu đen nhãn hiệu Sony dung lượng 8GB lưu trữ hình ảnh camera cho anh Lâm Trung H3; 01 Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, đại diện hộ kinh doanh là Nguyễn Thanh T4 cho bà Nguyễn Thanh T4 nên không xem xét giải quyết [11] Đối với Nguyễn Khắc T3 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan Công an đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T3 Đối với Nguyễn Thanh T4, là chủ nhà nghỉ N, tuy không biết các đối tượng tàng trữ trái phép chất ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng 201 nhưng các đối tượng sử dụng ma túy tại nhà nghỉ nên Cơ quan Công an đã Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Thủy Đối với Lưu Thị T5 và Lâm Trung H3, là quản lý nhà nghỉ N nhưng không biết nhóm của P có hành vi tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy nên không xử lý Đối với người phụ nữ bán ma túy cho P tại đường tàu Trần Nguyên Hãn, đối tượng tên Hòa bán ma túy cho H và đối tượng tên M bán ma túy cho S hiện chưa xác định được tên tuổi địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

[12] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 17, Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo Đoàn Thị P 24 (Hai mươi tư) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo P tính từ ngày 05 tháng 8 năm 2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo Nguyễn Thế H 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo H tính từ ngày 05 tháng 8 năm 2019.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn S 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 05 tháng 8 năm 2019.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trần S 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 25 tháng 12 năm 2019.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo Đoàn Thị P, Lê Văn S, Nguyễn Thế H, Nguyễn Trần S Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1; điểm a khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tch thu tiêu hủy đối với 01 bì thư dán kín niêm phong bên trong chứa số ma túy còn lại sau giám định và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy bao gồm: 01 chai nhựa màu trắng, nắp màu xanh có đục 02 lỗ, 01 lỗ gắn coóng thủy tinh, 01 lỗ gắn ống hút nhựa màu xanh; 01 bật lửa ga Trả lại cho bị cáo Đoàn Thị P 2.000.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế H 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng xám, model OPPO R8106 đã qua sử dụng và số tiền 29.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1102 màu xanh đen đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu vàng, Imei: 352002068165919, số tiền 100.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Trần S 01 thẻ ATM Vietcombank connect 24 hours số 9704366814155391014 mang tên Nguyễn Trần S (Tình trạng, đặc điểm vật chứng thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05 tháng 8 năm 2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo Đoàn Thị P, Lê Văn S, Nguyễn Thế H và Nguyễn Trần S mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

498
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 17/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;