Bản án 10/2020/HS-ST ngày 10/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 10/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 10 tháng 02 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Tu A H (tên gọi khác: Mèo) – sinh năm: 1987, tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Ấp BC, xã PX, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Mạnh H1 và bà Tu Thị H2 – 1962; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 15/8/2017, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 29/11/2019. (có mặt)

 2. Phạm Đức N – sinh năm: 1984, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp PM, xã PL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn Nh (đã chết) và bà Vũ Thị T – 1945; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 15/8/2017, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 29/11/2019. (có mặt)

- Bị hại:

+ Vũ Loan P – sinh năm: 1978. (có mặt)

Địa chỉ: Ấp TT, xã PL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

+ Vy Quốc H3 – sinh năm: 1963. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp PT, xã PB, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hồ Kim Th – sinh năm: 1974 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp PT, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 31/7/2019, Phạm Đức N điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chở phía sau Tu A H lưu thông trên quốc lộ 20 theo hướng xã Phú Lâm đi xã Phú Xuân. Khi đi ngang qua cửa hàng quần áo Uyển thuộc Ấp TT, xã PL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai, do chị Vũ Loan P làm chủ, N phát hiện 01 kiện hàng quần áo được gói lại bằng bọc nilong cuốn băng keo màu vàng, kích thước khoảng 40x80cm để phía trước, không có ai trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định trên, N quay xe lại dựng trước cửa hàng quần áo Uyển, H quan sát xung quanh không phát hiện ai nên nhảy xuống và ôm kiện hàng quần áo bỏ lên xe rồi chở về nhà N tại Ấp PM, xã PL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai. Khi về đến nhà, N cùng H dùng dao mở kiện hàng ra và thấy kiện hàng là quần tây nam nên cả hai mang ra chợ PL, chợ PB bán lẻ cho người dân với giá từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng để lấy tiền tiêu xài cá nhân và sử dụng ma túy.

Ngày 29/11/2019, công an xã PL kiểm tra hành chính tại nhà Phạm Đức N thì phát hiện N và H đang sử dụng ma túy đá nên mời về làm việc. Tại cơ quan công an, N và H khai nhận hành vi trộm cắp tài sản tại cửa hàng quần áo Uyển vào ngày 31/7/2019.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra, Tu A H còn khai nhận: Vào khoảng 02 giờ ngày 09/11/2019, H cùng một đối tượng tên T1 (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) điều khiển xe mô tô đi ngang qua nhà anh Hồ Kim Th, ngụ ấp PT, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai và phát hiện 01 máy đầm bàn (tài sản của ông Vy Quốc H3) để trước sân không ai trông coi. T1dừng xe mô tô lại cùng H đi vào sân nhà anh Th khiêng máy đầm bàn lên xe mô tô. Sau đó, T1 mang máy đầm bàn đi bán được số tiền 1.500.000 đồng, T1 và H dùng số tiền trên mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân.

Trị giá tài sản thiệt hại:

- Tại Kết luận định giá tài sản số 68/KL.HĐĐGTS ngày 09/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Phú xác định 100 cái quần tây, ống dài màu đen, xám (loại người lớn), nhãn hiệu Gucci NewFashion có giá trị 16.000.000 đồng.

- Tại Kết luận định giá tài sản số 69/KL.HĐĐGTS ngày 23/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Phú xác định 01 máy đầm bàn, loại máy N, dùng máy xăng, màu trắng – đỏ, đã qua sử dụng có giá trị 4.200.000 đồng. Vật chứng thu giữ: Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Đức N thu giữ 01 quần tây màu xanh nhãn hiệu FAMITI đã qua sử dụng; 03 quần tây nhãn hiệu New Fashion đã qua sử dụng và 01 nón bảo hiểm.

Trách nhiệm dân sự: Chị Vũ Loan P yêu cầu bồi thường số tiền 16.750.000 đồng, ông Vy Quốc H3 yêu cầu bồi thường số tiền 4.200.000 đồng. Hiện H và N chưa bồi thường.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Tu A H và Phạm Đức N đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình theo đúng nội dung vụ án nêu trên.

Bản cáo trạng số 08/CT-VKSTP-ĐN ngày 20 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Tu A H và Phạm Đức N về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú giữ quyền công tố luận tội và tranh luận; phân tích dấu hiệu phạm tội; đánh giá các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đặc điểm nhân thân của các bị cáo. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật hình sự cho các bị cáo, áp dụng thêm điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự cho bị cáo H. Đề xuất mức án đối với các bị cáo, cụ thể:

- Tu A H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Phạm Đức N từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc các bị cáo bồi thường cho các bị hại theo quy định của pháp luật.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 quần tây màu xanh nhãn hiệu FAMITI đã qua sử dụng và 01 nón bảo hiểm là tài sản hợp pháp của Phạm Đức N không liên quan đến việc phạm tội nên đã trao trả.

- Đối với 03 quần tây nhãn hiệu New Fashion đã qua sử dụng là tài sản của chị Vũ Loan P, cơ quan điều tra đã ra Quyết định trao trả tài sản cho chị P, tuy nhiên chị P không đồng ý nhận lại vì đã qua sử dụng.

- Đối với 97 cái quần tây nam nhãn hiệu Gucci, New Fashion; 01 máy đầm bàn hiện chưa thu hồi được, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú đã ra thông báo truy tìm vật chứng.

Đối với đối tượng tên T1: Quá trình điều tra, xác minh chưa làm rõ được nhân thân, lai lịch của T1 nên chưa có căn cứ xử lý, sẽ tiếp tục điều tra, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Các bị cáo có lời nói sau cùng như sau: Các bị cáo biết hành vi của mình là sai trái và ăn năn hối cải. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo Tu A H và Phạm Đức N đã thành khẩn khai nhận tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản khám xét và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 10 giờ ngày 31/7/2019, tại cửa hàng quần áo Uyển thuộc Ấp TT, xã PL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai, Tu A H và Phạm Đức N có hành vi lén lút chiếm đoạt 100 cái quần tây ống dài màu đen, xám (loại người lớn), nhãn hiệu Gucci, New Fashion có giá trị 16.000.000 đồng của chị Vũ Loan P.

Ngoài ra, vào khoảng 02 giờ ngày 09/11/2019, tại ấp PT, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai, Tu A H và một đối tượng tên T1 (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 máy đầm bàn trị giá 4.200.000 đồng của ông Vy Quốc H3.

Hành vi do các bị cáo đã thực hiện trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo thực hiện hành vi trên với lỗi cố ý. Bản thân các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Do đó các bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của bị hại để lén lút trộm cắp tài sản. Hành vi của các bị cáo không chỉ trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của các bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

[4]. Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều tham gia với vai trò là người thực hành. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào mức độ tham gia vào việc phạm tội của các bị cáo để áp dụng mức hình phạt tương xứng.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý nên hành vi phạm tội lần này của các bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo H đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của các bị hại vào các ngày 31/7/2019 và 09/11/2019. Cả 02 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo đều cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, xâm phạm đến cùng một khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản của người khác và chưa bị truy tố, xét xử. Do đó đủ yếu tố cấu thành tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7]. Về nhân thân: Các bị cáo tái phạm, có nhân thân xấu, nay lại tiếp tục phạm tội. Điều này thể hiện thái độ coi thường pháp luật của các bị cáo. Vì vậy phải xét xử và áp dụng cho các bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc.

[8]. Về hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[9]. Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10]. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, các bị cáo thỏa thuận liên đới bồi thường cho bị hại chị Vũ Loan P số tiền 16.750.000đ, chia phần cụ thể mỗi bị cáo bồi thường cho chị Phương 8.375.000đ. Xét thấy sự thỏa thuận trên là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, vì vậy Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với yêu cầu bồi thường số tiền 4.200.000đ của ông Vy Quốc H3. Xét thấy yêu cầu của ông H3 là đúng quy định của pháp luật, tại phiên tòa bị cáo H đồng ý tự nguyện bồi thường cho ông H3. Vì vậy buộc bị cáo H bồi thường cho ông H3 số tiền 4.200.000đ.

[11]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 quần tây màu xanh nhãn hiệu FAMITI đã qua sử dụng và 01 nón bảo hiểm là tài sản hợp pháp của Phạm Đức N không liên quan đến việc phạm tội nên đã trao trả là phù hợp.

- Đối với 03 quần tây nhãn hiệu New Fashion đã qua sử dụng: Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú đã ra quyết định xử lý vật chứng số 06/CQĐT (ĐTTH) ngày 13/01/2020 trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Vũ Loan P. Tuy nhiên chị P không đồng ý nhận lại vì đã qua sử dụng. Xét vật chứng là tài sản hợp pháp của chị P nên việc cơ quan điều tra trả lại cho chị Phương là phù hợp. Căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần trả lại cho chị P.

[12]. Về các vấn đề khác:

- Đối với 97 cái quần tây nam nhãn hiệu Gucci, New Fashion; 01 máy đầm bàn hiện chưa thu hồi được, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú đã ra thông báo truy tìm vật chứng.

- Đối với đối tượng tên T1: Quá trình điều tra, xác minh chưa làm rõ được nhân thân, lai lịch. Đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật.

[13]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, các điểm a, c, f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo H phải chịu 629.000đ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, bị cáo N phải chịu 419.000đ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

[14]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật hình sự cho các bị cáo;

- Điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự cho bị cáo H;

- Điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Các điểm a, c, f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố: Các bị cáo Tu A H và Phạm Đức N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt:

- Bị cáo Tu A H 02 (hai) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 29 tháng 11 năm 2019.

- Bị cáo Phạm Đức N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 29 tháng 11 năm 2019.

Về trách nhiệm dân sự:

Ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa các bị cáo Tu A H, Phạm Đức N và bị hại Vũ Loan P về việc các bị cáo liên đới bồi thường cho chị Phương số tiền 16.750.000đ (Mười sáu triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Chia phần cụ thể: Mỗi bị cáo bồi thường cho bị hại Vũ Loan P số tiền 8.375.000đ (Tám triệu ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

Buộc bị cáo Tu A H phải bồi thường cho bị hại Vy Quốc H3 số tiền 4.200.000đ (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

Đối với trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ mà các bên có thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Về xử lý vật chứng: Trả lại cho chị Vũ Loan P 03 quần tây nhãn hiệu New Fashion, đã qua sử dụng (Theo biên bản giao, nhận vật chứng, tài sản ngày 20 tháng 01 năm 2020).

Về án phí:

Bị cáo Tu A H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 629.000đ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, tổng cộng là 829.000đ (Tám trăm hai mươi chín nghìn đồng).

Bị cáo Phạm Đức N phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 419.000đ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, tổng cộng là 619.000đ (Sáu trăm mười chín nghìn đồng).

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại Vũ Loan P có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án. Bị hại Vy Quốc H3, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hồ Kim Th có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 10/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;