Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 28/05/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 10/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 36/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 200/2020/QĐXX-ST ngày 13 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, Sinh năm 1967 Nơi ĐKHKTT: Tổ 48, khu L, phường M, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Anh Nguyễn Anh D, Sinh năm 1965 Nơi ĐKHKTT: Khu tập thể Bộ tham mưu quân khu 2 (Khu 4, phường P, thành phố V, tỉnh Phú Thọ).

Chỗ ở hiện nay: Tổ 48, khu L, phường M, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. (Chị H, anh D có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về quan hệ hôn nhân: Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án tại Toa án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày chị và anh Nguyễn Anh D đăng ký kết hôn ngày 02/12/1987 tại UBND xã M, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phú. Trước khi kết hôn hai bên được tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống cùng gia đình anh D khoảng 10 năm thì chuyển ra ở riêng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân chủ yếu theo chị H là do anh D cờ bạc, nợ nần nhiều năm nay nên vợ chồng mâu thuẫn về tình cảm. Cuối năm 2019, chị H đã nộp đơn xin ly hôn với anh D tại Tòa án, anh D xin đoàn tụ để vợ chồng cải thiện cuộc sống vợ chồng nên chị H rút đơn nhưng từ đó cho đến nay, anh D vẫn không thay đổi nên cuộc sống vợ chồng không thể cải thiện. Đến nay xét tình cảm vợ chồng không còn, chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D.

Tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án bị đơn anh Nguyễn Anh D trình bày: anh D xác nhận lời trình bày của chị H về thời gian đăng ký kết hôn, quá trình vợ chồng chung sống là đúng. Anh D xác nhận đến khoảng năm 2016 thì cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do vấn đề kinh tế, do anh D vay nợ tiền của một số người và phải chi phí nuôi bố anh D bị liệt nằm viện nên không chu cấp cho vợ con được. Cuối năm 2019, chị H nộp đơn khởi kiện xin ly hôn tại Tòa án nhưng do anh D nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa đủ lớn nên anh D đề nghị chị H rút đơn để vợ chồng hòa giả với nhau. Đến nay, dù gia đình đã hòa giải nhiều lần nhưng nhưng không thành, chị H vẫn xin ly hôn nhưng quan điểm của anh D là không bỏ vợ. Nếu chị H kiên quyết xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Hai bên thống nhất xác định vợ chồng có 03 con chung: Nguyễn Thị Thùy D1 – Sinh năm 1988, Nguyễn Thị Minh H2 - Sinh năm 1993, Nguyễn Quang H1– Sinh năm 1995.

Nếu ly hôn, cả 03 con chung đều đã thành niên, lao động tự túc được nên hai bên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết. Anh D trình bày vợ chồng có 01 tài sản chung là 01 nhà 03 tầng đứng tên chị Nguyễn Thị H tại khu Liên Phương, phường Minh Phương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Nếu ly hôn, anh D không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về nợ chung, công sức đóng góp: Nếu ly hôn, hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, chị H vẫn giữ nguyên quan điểm, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh D. Bị đơn anh Nguyễn Anh D vẫn giữ nguyên quan điểm là không bỏ vợ.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại nơi cư trú của chị H và anh D, đại diện khu dân cư cho biết: Chị H và anh D đăng ký kết hôn từ năm 1987 và cư trú tại Tổ 48, khu L, phường M, thành phố V, tỉnh Phú Thọ từ nhiều năm. Quá trình chung sống vợ chồng chị H và anh D chung sống tại khu dân cư trong mấy năm gần đây có mâu thuẫn, chị H đã làm đơn xin ly hôn anh D tại Tòa án, nhưng nguyên nhân cụ thể thì khu dân cư không nắm rõ. Nay chị H xin được ly hôn anh D, quan điểm của chính quyền địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

-Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đều có mặt tại tất cả các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tại phiên tòa hôm nay.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các Điều 19, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016.

Xử:

- Không chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

- Về con chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự . Do bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nên Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa: Các văn bản tố tụng của Tòa án đã được tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn đều có mặt nên Tòa án xét xử vụ án là đúng quy định.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Anh D đăng ký kết hôn ngày 02/12/1987 tại UBND xã M, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phú (nay là tỉnh Phú Thọ). Trước khi kết hôn hai bên được tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống cùng gia đình anh D khoảng 10 năm thì chuyển ra ở riêng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân chủ yếu theo chị H là do anh D cờ bạc, nợ nần nhiều năm nay nên vợ chồng mâu thuẫn về tình cảm. Cuối năm 2019, chị H đã nộp đơn xin ly hôn với anh D tại Tòa án, anh D xin đoàn tụ để vợ chồng cải thiện cuộc sống vợ chồng nên chị H rút đơn nhưng từ đó cho đến nay, anh D vẫn không thay đổi nên cuộc sống vợ chồng không thể cải thiện. Đến nay xét tình cảm vợ chồng không còn, chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D. Quan điểm của anh D là do nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa đủ lớn và anh không bỏ vợ nên anh D không nhất trí ly hôn với chị H. Cả hai bên và chính quyền địa phương đều xác nhận vợ chồng chị H và anh D có mâu thuẫn. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng chị H vẫn kiên quyết xin ly hôn anh D, anh D xác định không bỏ vợ chứ không phải do tình cảm vợ chồng vẫn còn và anh cũng không có những biện pháp cụ thể để cải thiện cuộc sống vợ chồng khi chị H đã chấp nhận về vợ chồng đoàn tụ trong năm 2019. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ vì cuộc sống chung giữa chị H và anh D không có hạnh phúc, mâu thuẫn đã kéo dài ở mức trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần xử cho chị H được ly hôn anh D là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Hai bên thống nhất xác định vợ chồng có 03 con chung: Nguyễn Thị Thùy D1, sinh năm 1988; Nguyễn Thị Minh H2, sinh năm 1993; Nguyễn Quang H1, sinh năm 1995.

Nếu ly hôn, cả 03 con chung đều đã thành niên, lao động tự túc được nên hai bên không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ chung, công sức đóng góp: Chị H và anh D đều không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Các Điều 51, Khoản 1 Điều 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 273, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H, cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Anh D.

2. Về con chung, tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị H đã nộp 300.000 đ(Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2019/0000830 ngày 10 tháng 02 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 28/05/2020 về ly hôn

Số hiệu:10/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;