Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 20/05/2020 về ly hôn giữa chị P và anh Q

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 10/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ P VÀ ANH Q

Trong ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 232/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 về việc tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2020 và Thông báo về việc dời ngày xét xử vụ án hôn nhân gia đình số 03/2020/TB- TA ngày 02 tháng 04 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lệ Ph, sinh năm 1991

Địa chỉ: Thôn n, xã G, huyện TL, tỉnh Bình Thuận. (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Thạch Văn Q, sinh năm 1988

Địa chỉ: Ấp n, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án chị Nguyễn Thị Lệ P trình bày như sau:

Chị P và anh Q chung sống với nhau vào năm 2016, đến ngày 30/3/2017 anh chị đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện An, tỉnh Kiên Giang.

Sau một thời gian chung sống đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn do anh Q bỏ bê gia đình không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu với bạn bè, mọi công việc trong gia đình để một mình vợ gánh vác tuy nhiên anh Q không biết thương yêu vợ mà còn về nhà kiếm chuyện hành hung đánh đập vợ, đập phá đồ đạc gia đình. Mặc dù vợ chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên đã ly thân với nhau từ năm 2018 cho đến nay. Nhận thấy vợ chồng không thể tiếp tục chung sống cùng nhau nên chị P xin ly hôn với anh Q.

Về con chung: Chị P xác định vợ chồng có một con chung là cháu Thạch Minh K, sinh ngày 11/9/2017. Chị P có nguyện vọng được nuôi con chung sau khi vợ chồng ly hôn và không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Chị P xác định không có không yêu cầu Tòa án giải quyết Tại phiên tòa hôm nay chị P tiếp tục xin ly hôn với anh Q, xin được quyền nuôi con mà không yêu cầu chồng cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng chị Phượng xác định không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa - bị đơn anh Thạch Văn Q vắng mặt và không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu xin ly hôn của chị Phượng.

Chứng cứ nguyên đơn cung cấp: Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao khai sinh của cháu Thạch Minh K; giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của nguyên đơn (Bản công chứng). Bị đơn không cung cấp chứng cứ.

Kết quả xác minh từ chính quyền địa phương cho biết: Vợ chồng chị P và anh Q xảy ra nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn, hiện tại anh chị đã ly thân, vợ chồng đều đi làm thuê. Sau khi vợ chồng ly thân thì anh Q trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng không cho chị P đến thăm nom chăm sóc con.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng (Nguyên đơn) đảm bảo đúng theo quy định, không có kiến nghị về phần tố tụng, đề nghị áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị P được ly hôn với anh Q; đề nghị áp dụng Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị Pg không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung không có yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

Tại phiên tòa anh Q đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử thống nhất xét xử vắng mặt anh Q.

[2] Về nội dung vụ án:

Quan hệ pháp luật: Chị P xin ly hôn và yêu cầu giải quyết vấn đề con chung nên quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Chị P và anh Q chung sống với nhau có thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang theo quy định của pháp luật, do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị P, Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án mặc dù được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Q vắng mặt đồng thời không gửi văn bản nêu ý kiến trước yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị P. Qua lời trình bày của chị P và kết quả xác minh từ địa phương có cơ sở để xác định đời sống vợ chồng giữa chị P và anh Q đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Q không tu chí làm ăn, không chia sẻ trách nhiệm và công việc trong gia đình với vợ con, thường xuyên tụ tập bạn bè uống rượu sau đó về kiếm chuyện gây gổ với vợ, đập phá đồ đạc trong gia đình làm cho đời sống hôn nhân của vợ chồng không có hạnh phúc. Hiện anh chị đã tự ly thân trong thời gian dài, không còn sự quan tâm, chia sẻ với nhau trong cuộc sống, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã mở phiên hòa giải để hòa giải đoàn tụ nhưng anh Q không chấp hành theo giấy mời, không thể hiện thiện chí hàn gắn hôn nhân. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị P đều xin ly hôn. Từ đó có cơ sở để nhận định mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được do đó căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu của chị P, cho chị P được ly hôn với anh Q.

Về con chung: Anh chị có một con chung là Thạch Minh K, sinh ngày 11/9/2017. Theo lời trình bày của chị P sau khi vợ chồng ly thân anh Q tự ý bắt con mang theo mà không cho chị P nuôi dưỡng con và tới lui thăm nom, chăm sóc con. Qua kết quả xác minh cho thấy: Sau khi vợ chồng ly thân anh Q mang cháu Thạch Minh K về sống chung với cha nhưng anh Q và gia đình không cho chị P đến thăm nom chăm sóc con chung. Nhận thấy hiện nay cháu K chưa đủ 36 tháng tuổi, quãng thời gian này rất cần sự chăm sóc của người mẹ và trong thời gian nuôi dưỡng con anh Q không tạo điều kiện cho vợ tới thăm nom, chăm sóc con chung làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm sinh lý của cháu K do thiếu tình thương của người mẹ. Việc thời gian qua chị P không được ở gần con để nuôi dưỡng chăm sóc con là do anh Q tự ý bắt con đi và cản trở không cho mẹ và con được liên hệ với nhau chứ không phải do chị P không muốn nuôi con. Hiện nay công việc của chị P có thu nhập có thể đảm bảo được việc nuôi dưỡng con. Do đó, qua thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị P, thống nhất giao cháu Thạch Minh K cho chị P nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con, ghi nhận sự tự nguyện của chị P về việc không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Các đương sự không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị P là nguyên đơn chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

[4] Về ý kiến phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề nghị hướng giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát huyện An Biên tại phiên tòa là có cơ sở và căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử đã xem xét và ghi nhận trong quá trình giải quyết vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia và đình năm 2014;

- Áp dụng vào khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Lệ P và anh Thạch Văn Q.

2. Về con chung: Giao cháu Thạch Minh K, sinh ngày 11/9/2017 cho chị Nguyễn Thị Lệ P nuôi dưỡng sau khi vợ chồng ly hôn.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Lệ P về việc không yêu cầu anh Thạch Văn Q phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền đến thăm nom và chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Khi cần thiết anh chị có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Các đương sự không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Lệ P có nghĩa vụ nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0001996 ngày 09/08/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Kiên Giang. Chị Nguyễn Thị Lệ P đã nộp đủ án phí.

5. Báo quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 20/5/2020). Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

"Tờng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự"

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

317
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 20/05/2020 về ly hôn giữa chị P và anh Q

Số hiệu:10/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;