Bản án 10/2019/HSST ngày 27/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 10/2019/HSST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2019/HSST ngày 10/5/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 02/9/1972. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: xã T, huyện L, tỉnh Yên Bái. Nơi ở: thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Yên Bái. Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: lớp12/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Nguyễn Ngọc S (đã chết), con bà Phạm Thị Ng, sinh năm 1933, hiện trú tại thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Yên Bái. Vợ là Nông Thị H, sinh năm 1978 (đã ly hôn). Có 2 con, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2001. Tiền án: Có 01; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái, có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng:

- Anh Bàn Quang V, sinh năm 1978, trú tại thôn Bảo Tân, xã Minh Bảo, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, vắng mặt;

- Anh Hoàng Văn M, sinh năm 1980, trú tại Thôn 1 Vàn, xã Phúc Lợi, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái, vắng mặt;

- Anh Triệu Trung L, sinh năm 1978, trú tại Thôn 2 Vàn, xã Phúc Lợi, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái, vắng mặt;

- Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1993, trú tại thôn Mường Thượng, xã Tô Mậu, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các Tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 45 phút ngày 08/01/2019 Tổ công tác phòng chống tội phạm về ma túy Công an tỉnh Yên Bái bắt quả tang đối tượng Nguyễn Ngọc T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà ở của bà Phạm Thị Ngó là mẹ đẻ của T. Vật chứng thu giữ được: Tại túi quần bên trái T đang mặc 01 gói giấy màu trắng bên trong có lớp ni lon màu hồng chứa bột nén màu trắng (nghi là ma túy loại heroine) và được niêm phong tại chỗ, 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA cũ, đã qua sử dụng. Tại túi quần phía sau bên phải T đang mặc 500.000đồng tiền có chữ Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ngay sau khi bắt quả tang, Tổ công tác tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của bà Phạm Thị Ngó là nơi Nguyễn Ngọc T đang có mặt, phát hiện thu giữ: Tại ngăn bàn uống nước ngay cạnh chỗ ngồi của Tải 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa bột nén màu trắng (nghi là ma túy loại heroine) và được niêm phong tại chỗ. Tiếp theo khám xét khẩn cấp nhà riêng của Nguyễn Ngọc T, cách nhà mẹ đẻ khoảng 50m, không phát hiện thu giữ T liệu, đồ vật gì. Cả 02 căn nhà trên đều thuộc thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Yên Bái.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc T khai nhận, do bản thân nghiện ma túy và để có ma túy sử dụng vào tháng 12/2018 T lên khu vực bến xe khách huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai mua của một người tên là Minh nhưng T không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể 01 gói ma túy loại heroine với giá 4.000.000đ (bốn triệu đồng) đem về nhà ở của bà Phạm Thị Ngó là mẹ đẻ (do thời điểm này bà Ngó yếu mệt nên T thường xuyên ở lại chăm sóc), rồi chia nhỏ thành nhiều gói nhỏ để sử dụng và bán kiếm lời. Sau khi chia nhỏ số ma túy T đã bán nhiều lần cho nhiều người, cụ thể đã bán cho:

- Bàn Quang V, trú tại thôn Bảo Tân, xã Minh Bảo, thành phố Yên Bái 02 lần: Vào các ngày 01/01/2019 và 07/01/2019 mỗi lần 01 gói cùng với giá tiền 200.000đồng, cả 02 gói là 400.000đồng.

- Hoàng Văn M, trú tại Thôn 1 Vàn, xã Phúc Lợi, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái 01 lần vào ngày 07/01/2019, 01 gói với giá 100.000đồng.

- Triệu Trung L, trú tại Thôn 2 Vàn, xã Phúc Lợi, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái 02 lần: Vào các ngày 07/01/2019 và 08/01/2019, mỗi lần 01 gói với giá 200.000đồng, cả 02 gói là 400.000đồng. Tuy nhiên lần mua bán ngày 08/01/2019 T mới nhận tiền chưa kịp đưa ma túy cho L thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên còn L bỏ chạy, trốn thoát.

Tại bản Kết luận giám định số: 37/GĐMT ngày 15/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

- Chất bột nén màu trắng thu giữ khi bắt quả tang của Nguyễn Ngọc T có tổng khối lượng 3,08g (Ba phẩy không tám gam), trích 0,11 gam từ 3,08 gam chất bột nén gửi giám định là ma túy loại Heroine.

- Chất bột nén màu trắng thu giữ khi khám xét nơi ở của Nguyễn Ngọc T có khối lượng 1,19g (Một phẩy mười chín gam), trích 0,18 gam từ 1,19 gam chất bột nén gửi giám định là ma túy loại Heroine.

Tại bản Kết luận giám định số: 38/KLGĐ ngày 10/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận: Toàn bộ số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) là tiền do Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành.

Tại bản Cáo trạng số 09/CT-VKS-LY ngày 09/5/2019, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T để xét xử về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Yên vẫn giữ nguyên đề nghị truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

- Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm r, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Nguyễn Ngọc T từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù. Đồng thời tuyên về xử lý vật chứng; về án phí của bị cáo; về quyền kháng cáo...

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho mình bởi còn mẹ già cô đơn không có người chăm sóc.

Những người làm chứng đã được Hội đồng xét xử triệu tập nhưng đều vắng mặt, tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã công bố các bản khai của họ tại hồ sơ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi và quyết định của Cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[2] Về hành vi phạm tội của Nguyễn Ngọc T. Tại phiên tòa bị cáo khai nhận tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng; phù hợp với các T liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Do bản thân là người nghiện ma túy và để có ma túy để sử dụng bị cáo đã mua của một người đàn ông chỉ biết tên là M, ngoài ra không rõ lai lịch, địa chỉ tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai đem về chia nhỏ vừa sử dụng vừa bán kiếm lời. Thực tế bị cáo đã bán cho 03 người nghiện với tổng số 05 lần.

Hành vi mua bán chất ma túy của bị cáo T là hành vi trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội ở địa phương. Ma túy là một loại độc dược dễ gây nghiện làm cho con người cạn kiệt sức khỏe, suy thoái giống nòi. Nhà nước đã có những quy định chặt chẽ và với nhiều biện pháp về việc thống nhất độc quyền quản lý loại biệt dược này, nhất là tội phạm liên quan đến ma túy. Việc T trong một thời gian ngắn đã bán 05 lần ma túy cho các đối tượng nghiện về sử dụng với số lượng 05 gói và tổng trọng lượng là 4,27 gam ma túy là thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự như viện dẫn của bản cáo trạng là đúng pháp luật.

Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Do bản thân bị cáo là người nghiện và biết được nơi có nguồn ma túy để mua về chia nhỏ bán kiếm lời thu lợi bất chính và sử dụng cho bản thân mà không mất công sức nên T đã bất chấp quy định nghiêm khắc của pháp luật về loại tội phạm này để thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu ở phần trên. Bản thân T là người hiểu biết về tác hại của ma túy song không có quyết tâm để từ bỏ. Trước khi phạm tội lần này từ năm 1996 T đã từng bị Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp T sản” đã được xóa an tích. Đến năm 2016 lại bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nhưng vì quá lệ thuộc vào ma túy nên T chưa dứt ra được, với hành vi phạm tội lần này bị cáo phải chịu tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó cần có một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội mới có cơ hội cải tạo bản thân đồng thời để răn đe phòng ngừa chung. Song trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn nhận tội, đã tự khai báo trung thực những lần bán ma túy trước, đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc khi quyết định hình phạt.

Trong vụ án còn có các đối tượng nghiện như Bàn Quang V, Hoàng Văn M, Triệu Trung L là người mua ma túy của Nguyễn Ngọc T vào nhiều thời điểm từ ngày 01/01/2019 đến ngày 08/01/2019 và người tên Minh là người bán ma túy cho T (theo lời khai của T) đã được phân loại, xử lý như sau:

Đối với Bàn Quang V, Hoàng Văn M và Triệu Trung L là những người đã mua ma túy của T để sử dụng cho bản thân nhưng qua xác minh thấy số ma túy các đối tượng mua đã sử dụng hết nên không có căn cứ xử lý hình sự, cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý hành chính đối với V, M và L là đúng pháp luật.

Đối với người tên là Minh, theo lời khai của T là người đã bán ma túy heroine cho T nhưng quá trình điều tra không xác định được tên tuổi, lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

Đối với Nguyễn Minh T, trú tại thôn M xã T, huyện L, tỉnh Yên Bái là người có mặt tại nơi ở của T khi bị bắt quả tang nhưng Tuấn chỉ đến chơi, không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của T nên không có căn cứ xử lý.

Đối với bà Phạm Thị Ngó, là mẹ đẻ của T, đã già yếu đang được T chăm sóc và cũng không biết việc mua bán trái phép chất ma túy của T nên không có căn cứ xử lý.

[3] Về vật chứng của vụ án:

Cơ quan điều tra Công an huyện Lục Yên thu của bị cáo Nguyễn Ngọc T 02 gói ma túy tổng trọng lượng 4,27 gam heroine, đã trích ra 0,29 gam gửi giám định, còn lại 3,98 gam được niêm phong vào 01 phong bì mặt trước ghi “Phong bì niêm phong vật chứng thu giữ của Nguyễn Ngọc T ngày 08/01/2019, sau khi đã lấy mẫu giám định”, cần tịch thu tiêu hủy.

Số tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) thu của bị cáo T. Số tiền này sau khi giám định đã được cơ quan điều tra niêm phong vào 01 phong bì do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành. Xác định số tiền do bị cáo bán ma túy mà có, cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) do bị cáo T đã bán ma túy cho các đối tượng nghiện mà có nhưng đã chi tiêu, cần truy thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 02 vỏ phong bì niêm phong đã bóc mở để lấy mẫu vật giám định cùng 01 mảnh giấy màu trắng, 01 mảnh ni lon màu hồng, 01 mảnh ni lon màu trắng do T dùng gói ma túy, không còn giá trị kinh tế cần tịch thu tiêu hủy.

Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, đã cũ xác định của bị cáo T,

quá trình điều tra xác định không liên quan đến việc mua bán ma túy, cần trả lại cho bị cáo.

[4] Bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Ngọc T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017,

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 08/01/2019.

- Về xử lý vật chứng của vụ án:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 3,98 gam ma túy loại heroine được niêm phong vào 01 phong bì mặt trước ghi “Phong bì niêm phong vật chứng thu giữ của Nguyễn Ngọc T ngày 08/01/2019, sau khi đã lấy mẫu giám định”; 02 vỏ phong bì niêm phong đã bóc mở để lấy mẫu vật giám định; 01 mảnh giấy màu trắng; 01 mảnh ni lon màu hồng; 01 mảnh ni lon màu trắng.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) được niêm phong trong phong bì do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành.

Truy thu số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) nộp ngân sách nhà nước.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS: Trả lại bị cáo Nguyễn Ngọc T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, đã cũ nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Các vật chứng nêu trên có đặc điểm như mô tả tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/5/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Yên với Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Lục Yên.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2019/HSST ngày 27/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;