Bản án 10/2019/HS-ST ngày 04/04/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 04/04/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 04 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2019/QĐXXST-HS ngày 20-3-2019 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Thị Bé T, sinh ngày 18 tháng 4 năm 1986 tại thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: ấp 2, xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang. Nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Lê Thị V; bị cáo có chồng và 05 con. Tiền án: không; tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Bị hại: Nguyễn Diễm H, sinh năm 1953 (đã chết). Nơi cư trú: Ấp 5, xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện hợp pháp của gia TPh, tỉnh Tiền Giang (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ngô Trung H, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Ấp 2, xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang ( có mặt).

- Quách Hồng M, sinh năm 1957. Nơi cư trú: Ấp 5, xã TL 1, huyện T Ph tỉnh Tiền Giang ( vắngmặt).

Người làm chứng:

- Trần Văn P, sinh năm 1946. Nơi cư trú: Ấp 5, xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang ( vắng mặt).

- Nguyễn Thế T, sinh năm 1975. Nơi cư trú: Ấp 5, xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang ( vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Bé T, sinh năm 1986, ĐKTT: ấp 2, xã T L1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang. Không có giấy phép lái xe hạng A1.

Vào khoảng 06 giờ 10 phút ngày 01-8-2018, Nguyễn Thị Bé T, một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 63B8- 198.36 lưu thông trên tỉnh lộ 866B hướng từ cầu Kinh N đến cầu Vượt số 10. Khi đến đoạn trụ điện 92A thuộc ấp 4, xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang, Bé T phát hiện phía trước khoảng 8m có xe đạp do bà Nguyễn Diễm H, sinh năm 1953, ngụ ấp 5, xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang đang điều khiển một mình lưu thông cùng chiều. Lúc này, Bé T điều khiển xe 63B8- 198.36 chạy cách tim đường (vạch phân tuyến) 02m, vượt lên bên trái xe đạp của bà H nhưng do vượt không đảm bảo an toàn nên đã để tay cầm bên phải xe 63B8- 198.36 va chạm vào tay cầm bên trái xe đạp làm bà H và xe đạp ngã xuống đường. Hậu quả: bà H bị thương được người dân đưa đi cấp cứu đến ngày 13-8-2018 thì tử vong.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông hồi 17 giờ ngày 13-8-2018, do Cơ quan CSĐT Công an huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang thực hiện có kết quả như sau: theo lời trình bày của ông Quách Hồng M và Nguyễn Thị Bé T xác định hiện trường của đoạn đường nơi xảy ra tai nạn nằm trên đường Tỉnh lộ 866B, thuộc ấp 4, xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang, mặt đường trãi nhựa, có vạch phân tuyến không liên tục dọc hướng Đông- Tây, bề mặt đường thông thoáng, không bị che khuất tầm nhìn, có chiều rộng 7,50m, cặp lề hướng Bắc có nhiều nhà dân; cặp hướng Nam là khu đất trống không có nhà ở.

Ghi nhận việc đánh số thức tự theo số tự nhiên vị trí nạn nhân, phương tiện, tang vật, dấu vết: Số 1: trụ điện số 92A; Số 2: vị trí bà Nguyễn Diễm H té; Số 3: xe đạp; Số 4: Xe mô tô 63B8-198.36; Số 5: vùng va chạm.

Qua công tác khám nghiệm hiện trường xác định vùng va chạm ở phần đường hướng Nam, cách A 2,00m và cách số 2 về hướng Tây Bắc 2,30m, đặt số thứ tự 5.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 178/2018/TTh ngày 13-8- 2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận nguyên nhân chết của bà Nguyễn Diễm H: vỡ sọ thái dương đỉnh phải, xuất huyết màng cứng bán cầu trái, xuất huyết đại não phải và trái, dập não trán trái, xuất huyết hành não, cầu não và tiểu não do tai nạn giao thông.

T có 01 (một) vết sẹo mặt trên mu bàn tay phải, kt (0,5x0,5)cm, vị trí phía sau ngón út.

Vt chứng:

- 01 (một) xe mô tô hai bánh, biển số 63B8- 198.36, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, bị hư hỏng sau tai nạn. Qua điều tra xác định đây là các tài sản hợp pháp của anh Ngô Trung H, sinh năm 1980, ĐKTT: ấp 2, xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang. Ngày 01/8/2018, anh H không có lỗi trong việc Nguyễn Thị Bé T sử dụng xe 63B8- 198.36 gây tại nạn dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nên Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phước không truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này của anh H và ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại xe cho anh là có cơ sở.

- 01 (một) xe đạp, Marttin màu trắng bạc, bị hư hỏng sau tai nạn giao thông. Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 89/Kl-HĐ ngày 04/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự xác định tổng giá trị bị thiệt hại thành tiền của xe đạp trên là 80.000 đồng (tám mươi ngàn đồng). Qua điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Quách Hồng L, sinh năm 1981, ĐKTT: ấp 5, xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang. Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Phước ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho anh là có cơ sở.

Phần dân sự:

Đại diện hợp pháp của nạn nhân Nguyễn Diễm H là anh Quách Hồng L có đơn yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần số tiền là 90.060.000 đồng (chín mươi triệu không trăm sáu mươi ngàn đồng). Bị cáo đồng ý và đã bồi thường được số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).Gia đình nạn nhân xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại Cáo trạng số 11/CT-VKSTP ngày 13-3-2019, bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận về hành vi bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước đã truy tố đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, có bồi thường tiền khắc phục thiệt hại, đại diện gia đình bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; nên đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 03 năm tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định. Trách nhiệm dân sự ghi nhận sự thỏa thuận giữa đại diện gia đình bị hại với bị cáo.

Vật chứng : không có 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận bị cáo không có giấy phép lái xe hạng A1. Vào khoảng 06 giờ 10 phút ngày 01-8-2018, bị cáo một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 63B8- 198.36 lưu thông trên tỉnh lộ 866B hướng từ cầu Kinh Năng đến cầu Vượt số 10. Khi đến đoạn trụ điện 92A thuộc ấp 4, xã T L 1, huyện T Ph Giang, bị cáo phát hiện phía trước khoảng 8m có xe đạp do bà Nguyễn Diễm H đang điều khiển một mình lưu thông cùng chiều. Lúc này, bị cáo điều khiển xe 63B8- 198.36 chạy cách tim đường (vạch phân tuyến) 02m, vượt lên bên trái xe đạp của bà H nhưng do vượt không đảm bảo an toàn nên đã để tay cầm bên phải xe 63B8- 198.36 va chạm vào tay cầm bên trái xe đạp làm bà H và xe đạp ngã xuống đường. Hậu quả: bà H bị thương được người dân đưa đi cấp cứu đến ngày 13-8-2018 thì tử vong. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với hiện trường và kết quả khám nghiệm tử thi xác định nguyên nhân chết của bị hại nên có đủ căn cứ kết luận bị cáo đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Do vậy, nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố bị cáo về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng đã xâm phạm đến tính mạng của người khác, mặt khác còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội ở địa phương trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Đây là loại tội phạm xảy ra nhiều trên địa bàn huyện. Bị cáo không ý thức được việc điều khiển phương tiện tham gia giao thông phải chấp hành nghiêm quy định về an toàn giao thông, nhất là luật giao thông đường bộ, bản thân bị cáo điều khiển xe trên 50cm3 nng không có giấy phép lái xe theo quy định, bị cáo vượt xe không bảo đảm an toàn vi phạm các Điều 8, Điều 14 của Luật giao thông đường bộ, do thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên gây tai nạn. Hậu quả làm cho bà Nguyễn Diễm H chết, lỗi trong vụ án này là do bị cáo hoàn toàn nên việc xử mức án nghiêm khắc đối với bị cáo để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời giáo dục phòng ngừa chung cho mọi người khác.

Tuy nhiên, xem xét giảm nhẹ cho bị cáo có nhân thân tốt, thật thà khai báo, ăn năn hối cải, sau khi gây tai nạn đã khắc phục hậu quả, bị là dân lao động nghèo , con còn nhỏ; đại diện gia đình bị hại có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, nghĩ không cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội mà xử mức án tương xứng giao bị cáo về địa phương giám sát giáo dục để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về trách nhiệm dân sự Đại diện hợp pháp của bị hại là anh Quách Hồng L có đơn yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần số tiền là 90.060.000 đồng (chín mươi triệu không trăm sáu mươi ngàn đồng). Bị cáo đồng ý và đã bồi thường được số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng). Số tiền 40.000.000 đồng còn lại bị cáo và đại diện gia đình bị hại anh Quánh Hồng L thống nhất thoả thuận như sau: bị cáo phải bối thường tiếp cho đại diện gia đình bị hại số tiền 40.060.000 đồng thi hành trong hạn 03 năm ngày nộp tiền là ngày 13.8 hàng năm bắt đầu thực hiên từ năm 2019. Xét thấy sự thỏa thuân giữa bị cáo vá gia đình bị hại là tự nguyện đúng pháp luật nên ghi nhận.

[5] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phân tích tính chất mức độ phạm tội, đặc điểm nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị tội danh, điều luật áp dụng là có cơ sở như đã phân tích nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về vật chứng:

- 01 (một) xe mô tô hai bánh, biển số 63B8- 198.36, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, bị hư hỏng sau tai nạn. Qua điều tra xác định đây là các tài sản hợp pháp của anh Ngô Trung Hội. Ngày 01/8/2018, anh Hội không có lỗi trong việc bị cáo sử dụng xe 63B8- 198.36 gây tại nạn dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nên Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phước không truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này của anh Hội và ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại xe cho anh là có cơ sở.

- 01 (một) xe đạp, Marttin màu trắng bạc, bị hư hỏng sau tai nạn giao thông. Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 89/Kl-HĐ ngày 04/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự xác định tổng giá trị bị thiệt hại thành tiền của xe đạp trên là 80.000 đồng (tám mươi ngàn đồng). Qua điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Quách Hồng L. Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Phước ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho anh là có cơ sở.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1/Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Bé T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử: Phạt bị cáo Nguyễn Thị Bé T 03 ( ba) năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T L 1, huyện T Ph, tỉnh Tiền Giang giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. “ Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2/Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 586, khoàn 1,2 Điều 591, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo phải bồi thường tiếp cho đại diện hợp pháp của bị hại ông Quách Hồng L số tiền 40.060.000 đồng ( bốn mươi triệu không trăm sau chục ngàn đồng) Thi hành án trong hạn 03 năm khi án có hiệu lực pháp luật ngày nộp tiền thi hành án là ngày 13/8 hàng năm bắt đầu thực hiện từ năm 2019.

Kể từ ngày đại diện hợp pháp của bị hại có đơn yêu cầu thi hành án nếu chậm thi hành thì hàng tháng bị cáo phải chịu thêm lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự trên số tiền phải thi hành.

3/Về án phí:

Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí HSST và 2.003.000 đồng án phí DSST.

4/Quyền kháng cáo:

Bị cáo; đại diện gia đình bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 04/04/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;