Bản án 10/2019/DS-ST ngày 02/07/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MS, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 10/2019/DS-ST NGÀY 02/07-/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/2019/TLST-DS ngày 22 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 5 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 05A/2019/QĐST-DS ngày 03 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đăng N (Nguyễn Văn N), sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị L sinh năm 1968. Địa chỉ: Bản HD, xã NB, huyện MS, tỉnh Sơn La. Bà L ủy quyền cho ông N, có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Phạm Thừa C sinh năm 1974. Địa chỉ: Tiểu khu A, xã CN, huyện MS, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 22/3/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ôngNguyễn Đăng N, bà Nguyễn Thị L trình bày như sau:

Trong các ngày 07 và 08 tháng 12 năm 2017, anh Phạm Thừa C (trú tại tiểu khu A, xã CN, huyện MS, tỉnh Sơn La) có vào nhà ông bà ở bản HD, xã NB mua ngô bắp. Tổng cộng anh C đã mua của gia đình ông bà 18254 kg ngô bắp với giá 2.350 đồng/kg, thành tiền 42.896.000 đồng. Anh C có hẹn ông bà là ngày 09/12/2017 sẽ trả toàn bộ số tiền mua ngô trên. Tuy nhiên nhiều lần gọi điện và đến nhà đòi anh C đều khất nợ và đến ngày 19/5/2018 âm lịch có viết giấy khất nợ với ông bà hẹn 10, 15 ngày sau sẽ trả nhưng cho đến nay anh C vẫn chưa trả được cho ông bà số tiền mua ngô trên nên ông bà khởi kiện yêu cầu  anh  C phải  trả ngay một  lần  cho  ông bà số  tiền  mua ngô  còn  nợ là 42.896.000 đồng tiền gốc và không yêu cầu tính lãi.

Tại biên bản lấy lời khai cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Phạm Thừa C trình bày:

Anh xác nhận có việc còn nợ của vợ chồng ông Nguyễn Đăng N số tiền mua ngô bắp từ năm 2017 tính thành tiền là 42.896.000 đồng như ông N đã khởi kiện. Tuy nhiên, do điều kiện khó khăn, bản thân cũng bán hàng nợ cho người khác nên hiện anh chưa có khả năng để trả nợ cho ông N. Anh cam kết có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số tiền nợ mua ngô là 42.896.000 đồng cho vợ chồng ông N trong thời hạn cuối cùng là tháng 12/2019.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập các đương sự để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án  nên vụ án được đưa ra xét xử theo quy định.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đều chấp hành đúng quy định của BLTTDS.

Về đường lối giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và qua tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét tất cả các ý kiến của những người tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng các Điều 430, 433, 434, 440, Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;  Điều 147,  khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, 266, 267, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 ngày 30/12/2016 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đăng N, bà Nguyễn Thị L.

- Buộc anh Phạm Thừa C phải trả cho ông N, bà L số tiền mua ngô bắp còn nợ là  42.896.000 đồng tiền gốc.

- Buộc anh Phạm Thừa C phải trả toàn bộ số tiền 42.896.000 (bốn mươi hai triệu tám trăm chín mươi sáu nghìn đồng) một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Anh C phải chịu án phí Tòa án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Việm kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn đều xác nhận các ngày 07 và 08 tháng 12 năm 2017 có giao dịch về việc mua bán ngô bắp, do bị đơn vi phạm về nghĩa vụ trả tiền nên phát sinh tranh chấp. Do bị đơn cư trú tại tiểu khu A, xã CN, huyện MS, tỉnh Sơn La nên Tòa án nhân dân huyện MS thụ lý vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 26 và  điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ lu t Tố tụng Dân sự năm 2015.

Giao dịch dân sự được xác lập vào ngày 07 và 08 tháng 12 năm 2017 nên áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Dân sự 2015, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Hội đồng xét xử nhận thấy:

Tại biên bản lấy lời khai cũng như tại buổi công khai chứng cứ và hòa giải ngày 21/5/2019 tại Tòa án, bị đơn anh Phạm Thừa C xác nhận còn nợ số tiền mua ngô bắp của vợ chồng ông Nguyễn Đăng N số tiền gốc là 42.896.000 đồng. Lời thừa nhận này là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Từ đó có đủ căn cứ xác định giữa vợ chồng ông N và anh C có giao dịch mua bán ngô bắp. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, vợ chồng ông N đã thực hiện đúng nghĩa vụ giao tài sản, anh C đã nhận đủ hàng nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ trả tiền là vi phạm nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 440 Bộ luật Dân sự. Nên việc khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.

Về tính lãi: Nguyên đơn không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về yêu cầu trả một lần toàn bộ số tiền gốc còn nợ ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật của nguyên đơn: Hội đồng xét xử xét thấy giao dịch về việc mua bán tài sản giữa hai bên là hoàn toàn tự nguyện, bên bán đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng, bên mua đã nhận đủ hàng và vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận giữa hai bên trong một thời gian dài nên có căn cứ để chấp nhận yêu cầu trả toàn bộ số tiền gốc còn nợ trong một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

 [3] Về án phí: Bị đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 430, 433, 434, 440, Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;  Điều 147,  khoản Điều 227, khoản 3 Điều 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1.  Chấp  nhận  toàn  bộ  yêu  cầu  khởi  kiện  của  ông  Nguyễn  Đăng  N (Nguyễn Văn N), bà Nguyễn Thị L.

- Buộc anh Phạm Thừa C phải trả cho ông N, bà L số tiền mua ngô bắp còn nợ là 42.896.000 (bốn mươi hai triệu tám trăm chín mươi sáu nghìn) đồng.

- Buộc anh Phạm Thừa C phải trả toàn bộ số tiền 42.896.000 đồng một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều357, khoản 2 Điều 468 Bộ luât Dân sự năm 2015.

2. Về án phí: Anh Phạm Thừa C phải nộp số tiền án phí là 2.145.000 (hai triệu một trăm bốn mươi lăm nghìn) đồng chẵn.

Ông Nguyễn Đăng N được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.072.000 (Một triệu không trăm bảy mươi hai nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0002127 ngày 22 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện MS.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật  thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nh n được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2019/DS-ST ngày 02/07/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:10/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;