TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 10/2018/HS-ST NGÀY 17/01/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH AN TOÀN LAO ĐỘNG
Ngày 17 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 179/2017/HSST ngày 27-12-2017 đối với bị cáo: Lã Văn D, sinh năm 1976 tại Nam Định; trú tại: Tổ X, ấp P, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ văn hóa: 06/12; cha: Lã Mạnh D (đã chết), mẹ: Đặng Thị N; có vợ là Nguyễn Thị Y và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được tại ngoại (có mặt).
- Bị hại: Ông Đỗ Văn L, sinh năm 1943 (đã chết trong vụ án)
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1949 (là vợ của ông L), bà Đỗ Thị N, sinh năm 1968, bà Đỗ Thị N, sinh năm 1971, ông Đỗ Ngọc L, sinh năm 1974 (là con ruột của ông L)
Cùng địa chỉ: Tổ B, ấp Ô, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Lã Văn D bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Là Văn D là chủ thầu xây dựng nhà ở dân sinh nên đã ký hợp đồng với bà Huỳnh Thị Kim L, sinh năm 1979, HKTT: Thôn C, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi xây dựng căn nhà ỏ tổ X, ấp Ô, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Theo hợp đồng bị cáo D trực tiếp chịu trách nhiệm an toàn trong suốt quá trình thi công xây dựng căn nhà. Bị cáo D thuê bà Lê Thị Kiều P, sinh năm 1988, trú tại: ấp S, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và ông Đỗ Văn L, sinh năm 1943, HKTT: Ấp Ô, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để phụ hồ, bê tông và di dời vật tư để phụ xây dựng nhà và một số thợ xây, bắt đầu xây dựng căn nhà của bà L từ ngày 05-3-2017. Đến ngày 26-4-2017 thi công ở tầng 1, bị cáo D phân công ông L, bà P ở dưới đất trộn hồ, đưa gạch ở dưới đất lên tầng 1; D lắp ráp giàn giáo cao 5,9 mét và gắn thiết bị máy tời điện vào để đưa hồ, bê tông và gạch từ dưới đất lên, nhưng máy tời điện chưa được đăng kiểm theo quy định của pháp luật. Làm việc đến khoàng 15 giờ 20 phút cùng ngày ông L móc một thùng nhựa, kích thước 60cm x 40cm, quay bằng sắt, đường kinh 0,5cm đựng bê tông vào móc sắt máy tời, ông L chưa đứng vào vị trí an toàn thì bị cáo D đã điều khiển máy tời điện kéo xô bê tông lên lầu. Khi đưa xô bê tông lên cao khoảng 3 mét thì dây cáp máy tời đứt, xô bê tông rơi trúng người làm ông L bị thượng nặng sau đó chết trên đường đi cấp cứu.
Tại kết luận giám định pháp y về tử thi số 118/CV54-DD ngày 18/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận:
1. Dấu hiệu chính qua giám định: Chảy máu dưới da đầu vùng đỉnh hai bên. Chảy máu toàn bộ hai bán cầu đại não. Bầm tụ máu da ngực vùng 1/3 giữa xương ức, kích thước 7cm x 5cm. Tụ máu trong cơ vùng 1/3 giữa xương ức. Gãy đôi 1.3 giữa xương ức. Gãy cung trước xương sườn 2-3-4-5 bên trái. Tràn máu khoang ngực bên phải. Dập-rách thùy trên phổi trái, kích thước 3cm x 2cm. Tràn máu xoang màng ngoài tim. Vỡ tâm thất trái, kích thước 2,5cm x 1cm.
2. Nguyên nhân chết do đa chấn thương: Chảy máu não, gãy xương ức, gãy xương sườn, dập-rách phổ, vỡ tim, xuất huyết nội.
Vật tác động gây chấn thương là vật tày, diện tiếp xúc rộng tác động trực tiếp lên vùng đầu-ngực cơ thể nạn nhân theo hướng từ trên xuống, từ trước ra sau.
Nguyên nhân dẫn đến tai nạn lao động: Do Lã Văn D điều khiển máy tời diện đưa xô bê tông không quan sát, không cảnh báo an toàn dẫn đến việc dây cáp máy tời điện đứt làm xô bê tông rơi trúng người ông L làm ông L chết.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lã Văn D đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Đại diện gia đình bị hại là ông Đỗ Quang L đã nhận tiền và làm đơn bãi nại cho bị cáo D.
Tại bản cáo trạng số 04/KSĐT-TA ngày 25-12-2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành đã truy tố Lã Văn Doanh về tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động” theo khoản 1 Điều 227 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên Tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 227 của Bộ luật hình sự, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Lã Văn D mức án từ tháng đến 12 tháng đến 18 tháng tù.
Bị cáo không có ý kiến gì đối với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG
[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hay phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung; những tài liệu, chứng cứ và các quyết định tố tụng do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp và được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lã Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Khoảng 15 giờ 20 phút ngày 26/4/2017 tại công trình xây dựng nhà bà Huỳnh Thị Kim Ln, tại tổ X, ấp Ô, xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, bị cáo D đã điều khiển máy tời điện chưa được đăng kiểm, nâng xô bê tông, kích thước 60cm x40cm; đồng thời không chú ý quan sát, không đảm bảo an toàn nên khi ông Đỗ Văn L đang đứng dưới giàn giáo bị cáo đã điều khiển máy tời nâng xô bê tông lên; dây cáp máy tời đứt làm xô bê tông rơi trúng người ông L làm ông L chết. Lời khai của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Lã Văn D đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động” được quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã vi phạm về điều kiện an toàn ở những nơi đông người mà còn trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ. Trong vụ án này, đã xác định được nguyên nhân chính để xảy ra tai nạn là do bị cáo D điều khiển máy tời chưa được đăng kiểm, không có sự quan sát, không đảm bảo an toàn là đã vi phạm đến các quy định về bảo đảm an toàn lao động, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.
[3] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và hậu quả xảy ra là do lỗi vô ý; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường cho gia đình bị hại và đã được đại diện gia đình bị hại bãi nại. Từ những căn cứ trên nhận thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo là lao động chính trong gia đình và có con còn nhỏ nên xét không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam mà áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo là cũng đủ tính răn đe, giáo dục và cải tạo đối với bị cáo.
[4] Về án phí: Bị cáo Lã Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lã Văn D phạm tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động”.
1. Áp dụng khoản khoản 1 Điều 227 của Bộ luật hình sự; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999:
Xử phạt bị cáo Lã Văn D 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24(hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án 17-01-2018.
Giao bị cáo Lã Văn D cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã T giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự
3. Áp dụng các Điều 23, 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Bị cáo Lã Văn D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.
Bản án 10/2018/HS-ST ngày 17/01/2018 về tội vi phạm quy định an toàn lao động
Số hiệu: | 10/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/01/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về