Bản án 10/2018/HS-ST ngày 17/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 10/2018/HS-ST NGÀY 17/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 17 tháng 01 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 199/2017/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2018/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm 1987. Tại: Bắc Giang; Tên gọi khác: Hoàn Mèo.

Nơi ĐKNKTT: Tổ dân phố Tiền Giang 2, cụm 3, phường L, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

Chỗ ở: Không có nơi ở cố định.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 4/12. Con ông: Nguyễn Xuân B, sinh năm 1963 (đã chết). Con bà: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1963. Vợ, con: Chưa có.

- Tiền án: Tại bản án số 17/2006/HSST ngày 26/1/2006, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh xử phạt 8 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Tại bản án số 70/2007/HSPT ngày 20/7/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt 15 thán tù về tội trộm cắp tài sản. Tại bản án số 19/2008/HSST ngày 26/11/2008, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS, xử phạt 36 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Tại bản án số 51/2012/HSST ngày 17/01/2012, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh áp dụng khoản 1 Điều 138 BLHS, xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt trị giá 356.000 đồng). Tại bản án số 81/2013/HSST ngày 15/4/2013, Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt Hoàn 01 năm 03 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/01/2014 (tài sản chiếm đoạt trị giá 1.500.000 đồng). Tại bản án số 23/2015/HSST ngày 11/3/2015, Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, ra trại ngày 13/5/2017.

- Tiền sự: Không.

- Nhân thân: Ngày 15/9/2003, UBND thị xã B xử lý đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng. Ngày 06/9/2005, Công an phường P xử phạt vi phạm hành chính 150.000 đồng về hành vi trộm cắp. Ngày 25/12/2012, Công an phường T xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 10/5/2014, Công an phường H xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 26/5/2014, Công an phường X xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/10/2017 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. (Có mặt tại phiên tòa).

+ Bị hại: Ông Hà Văn H, sinh năm 1955

Địa chỉ: Số nhà A, đường N, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. (Vắng mặt tại phiên tòa).

+ Người làm chứng:

1. Chị Mai Thị M, sinh năm 1983

Địa chỉ: Số nhà Z, đường C, phường L, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. (Vắng mặt tại phiên tòa).

2. Anh Dương Văn M, sinh năm 1977

Địa chỉ: Thôn D, xã T, huyện G, tỉnh Bắc Giang. (Vắngmặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 26/10/2017, bị cáo Nguyễn Văn H đi bộ lang thang trong khu vực thành phố B mục đích xem ai có sơ hở thì trộm cắp tài sản đem bán lấy tiền mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến ngôi nhà 04 tầng đang xây dựng của ông Hà Văn H, sinh năm 1955, ở số A, đường T, phường H, thành phố B, bị cáo nhìn thấy cửa xếp khóa, bên trong không có người nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Sau khi quan sát xung quanh, bị cáo nhìn thấy hộp đồng hồ điện ở phía ngoài ngôi nhà có 01 sợi dây điện màu vàng dài 10 mét (loại dây điện nhãn hiệu P, thông số 2Cx2,5 SQMM) nối từ hộp đồng hồ vào trong nhà. Bị cáo rút đầu dây cắm điện ở hộp đồng hồ ra, rồi dùng hai tay kéo cuộn dây điện ở trong nhà ra ngoài thì thấy phía đầu dây điện bên trong nhà nối với 01 bảng điện nhỏ và 01 ổ cắm điện, đầu ổ cắm này có 01 sợi dây điện dài 18 mét (loại dây điện nhãn hiệu LALO VIET 2C x 1,5 SQMM), một đầu có phích cắm và một đầu có ổ cắm. Sau khi kéo hai đoạn dây điện ra ngoài, bị cáo cuộn lại để mang đi tiêu thụ. Bị cáo đi bộ đến đường C, phường H thì bị Tổ công tác của Công an phường H phát hiện kiểm soát, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Ngày 26/10/2017, ông Hà Văn H có đơn trình báo Công an phường H, thành phố B.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 124/KL-HĐĐG ngày 28/10/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận:

- 10 mét dây điện màu vàng, nhãn hiệu P, thông số 2Cx2,5SQMM đã qua sử dụng có giá trị là: 10m x 12.000 đ/m = 120.000 đồng;

- 01 bảng điện đã qua sử dụng có giá trị là: 50.000 đồng;

- 18 mét dây điện màu vàng, nhãn hiệu Lalo Việt, thông số 2Cx1,5SQMM đã qua sử dụng có giá trị là: 18m x 6.000 đ/m = 108.000 đồng;

- 01 chiếc phích cắm điện đã qua sử dụng có giá trị là: 5.000 đồng;

- 01 chiếc ổ cắm điện đã qua sử dụng có giá trị là: 15.000 đồng. Tổng giá trị số tài sản bị chiếm đoạt là: 298.000 đồng.

Ngày 06/11/2017, Cơ quan điều tra đã trả lại ông Hà Văn H số tài sản nói trên.

Đến nay, ông Hùng không yêu cầu bồi thường dân sự.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội

Tại phiên tòa bị cáo khai rõ hành vi phạm tội như trên

Tại bản cáo trạng số 14/KSĐT ngày 20/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Nguyễn Văn H về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

- Bị hại ông Hà Văn H vắng mặt tại phiên tòa trình bày: Ngày 26/10/2017 gia đình ông bị kẻ gian vào trộm cắp đoạn dây diện dùng để nối từ hộp công tơ vào nhà, đến nay già đình ông đã nhận lại toàn bộ tài sản trộm cắp và ông không yêu cầu bồi thường về dân sự.

- Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại cơ quan điều tra như sau: anh Dương Văn M và chị Mai Thị M đều trình bày về việc chứng kiến tổ công tác công an phường H kiểm soát đối với bị cáo Hoàn và thu giữ tài sản bị cáo trộm cắp được của gia đình ông Hùng

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích các tình tiết của vụ án và giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 26/10/2017.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiển sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Khoảng 12 giờ 15 phút, ngày 26/10/2017  tại số nhà A, đường T, phường H, thành phố B, bị cáo Nguyễn Văn H có hành vi trộm cắp 10 mét dây điện màu vàng, nhãn hiệu P, thông số 2Cx2,5SQMM; 01 bảng điện; 18 mét dây điện màu vàng, nhãn hiệu Lalo Việt, thông số 2Cx1,5SQMM; 01 chiếc phích cắm điện; 01 chiếc ổ cắm điện, đều đã qua sử dụng, có tổng giá trị là 298.000 đồng của ông Hà Văn H, bản thân bị cáo có tiền án về tội trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo đã phạm tội "Trộm cắp tài sản" được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ. Chỉ vì lợi ích trước mắt, bị cáo đã chiếm đoạt tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong nội bộ quần chúng nhân dân. Do vậy cần phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội này.

[3] Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử về hình sự và xử phạt hành chính, bị cáo có 06 tiền án chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học mà còn phạm tội

[4] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Tại giai đoạn điều tra và trước phiên toà hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đã gây ra. Đây là tình tiết để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.

[6] Thời điểm truy tố Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 chưa có hiệu lực thi hành, do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng quy định. Tại thời điểm xét xử mặc dù Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có hiệu lực thi hành, nhưng các quy định về tội danh, về hình phạt của tội “Trộm cắp tài sản” và tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 không có gì thay đổi so với Bộ luật hình sự năm 1999. Do vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Ông Hà Văn H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường về dân sự, Tòa án không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H (Tức Hoàn Mèo) phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Căn cứ khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999. Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H (Tức Hoàn Mèo) 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 26/10/2017.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2018/HS-ST ngày 17/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;