Bản án 10/2018/HS-ST ngày 09/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 10/2018/HS-ST NGÀY 09/03/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân huyện huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/HSST ngày30 tháng 01 năm 2018, quyết định đưa vụ án ra xét xử số:11/2018/HSXXST- HS ngày 23 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T - Sinh năm 1969 tại xã GY, huyện GT, tỉnh NĐ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Xóm 7 xã GY, huyện GT, tỉnh NĐ. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị T (đều đã chết); Có vợ là: Vũ Thị H - sinh năm 1983, hiện đi làm tự do không rõ địa chỉ. Có hai con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2007.

Tiền án: Ngày 02/4/2014 bị Tòa án nhân dân huyện GT, tỉnh NĐ xử phạt 30 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 27/12/2015. Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam tính từ ngày bị bắt tạm giữ 01/12/2017 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh NĐ.

- Người làm chứng:

1.  Anh Nguyễn Văn V; Sinh năm 1979

Địa chỉ: Xóm LP xã GP, huyện GT, tỉnh NĐ.

2. Chị Hứa Thị T; Sinh năm 1975.

Địa chỉ: Xóm 3 QT xã GT, huyện GT, tỉnh NĐ.

3. Anh Nguyễn Xuân T; Sinh năm 1967.

4. Anh Nguyễn Văn Dg; Sinh năm 1990.

Đều có địa chỉ tại: Xóm 7 xã GT, huyện GT, tỉnh NĐ.

Tại phiên tòa: Có mặt bị cáo; người làm chứng có mặt anh T, những người làm chứng còn lại vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 01/12/2017, Nguyễn Văn V đến nhà Nguyễn Văn T mục đích mua heroin để sử dụng. Khi đến nhà T, Vương hỏi T mua 200.000 đồng heroin, Th đồng ý. V đưa cho T 200.000 đồng, T nhận tiền và đưa cho V 02 gói heroin thì bị tổ tuần tra Công an huyện Giao Thủy bắt quả tang. Thu giữ của V 02 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, V khai đó là heroin vừa mua của T, được niêm phong theo quy định. Thu giữ của T 1.200.000 đồng, T khai trong đó có 200.000 đồng là tiền vừa bán 02 gói heroin cho V mà có. Tổ tuần tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm pháp củamình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số: 955/GĐKTHS ngày 02/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng được niêm phong gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng trọng lượng (tổng khối lượng) mẫu 0,061 gam.

Bản cáo trạng số 09/CTR ngày 29/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giaoo Thủy truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn V để kiếm lời. Như vậy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy điều kiện kinh tế gia đình khó khăn phải nuôi 02 con, nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định; Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng do bị cáo bán ma túy cho V mà có.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng Nghị án, bị cáo được nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được miễn hình phạt bổ sung

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 01/12/2017 tại nhà ở của mình, Nguyễn Văn T đã có hành vi bán trái phép 02 gói ma túy cho Nguyễn Văn V lấy 200.000 đồng thì bị tổ tuần tra Công an huyện GT phát hiện bắt quả tang.  Vật chứng được thu giữ niêm phong gửi đi giám định: Tại bản kết luận giám định số 955/GĐKTHS ngày 02/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng được niêm phong gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng trọng lượng (tổng khối lượng) mẫu 0,061 gam. Do đó bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Hành vi phạm tội của của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức ma túy là hiểm họa của mỗi gia đình và cộng đồng xã hội là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gia tăng tội phạm hình sự, xâm phạm tới đạo đức và sức khỏe con người. Bị cáo biết việc làm của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của ma tuý nhưng vẫn cố ý thực hiện, mua ma túy về để bán kiếm lời, bị cáo đã từng phải chấp hành án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo với tính chất nghiêm trọng. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc để giáo dục riêng đối với bị cáo và đáp ứng công tác phòng chống tội phạm nói chung.

[3] Khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai  báo, ăn năn hối cải, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định đủ để bị cáo cải tạo khi trở về cộng đồng là công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định. Đối với số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của bị cáo, có 200.000 đồng là tiền bị cáo bán ma túy mà có, vì vậy áp dụng  khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 tịch thu sung quỹ nhà Nhà nước; Số tiền còn lại 1.000.000 đồng là tiền hợp hợp pháp không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho gia đình bị cáo là phù hợp.

Về nguồn gốc số heroine Thanh có để bán cho V, T khai nhờ một thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ mua hộ 01 gói với giá 300.000 đồng ở nhà Hứa Thị T. T về chia ra thành 06 gói nhỏ. T đã sử dụng 04 gói, còn lại 02 gói bán cho V thì bị bắt. Quá trình điều tra không xác định người mua hộ heroine cho T và Hứa Thị T cũng không thừa nhận đã bán heroine cho người mà Thanh nhờ mua nên không có căn cứ để xử lý đối với T và người mua hộ heroine cho T.

Đối với hành vi mua 0,061 gam heroine để sử dụng cho bản thân của V và hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của T. Xét thấy V và T là đối tượng nghiện chất ma túy, hành vi của T và V chưa đến mức phải xử lý bằng pháp luật hình sự nên Công an huyện GT đã xử phạt hành chính là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất matúy”. Áp dụng: khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt Nguyễn Văn T 36 (ba mươi sáu) tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày 01/12/2017.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng  khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng bị cáo bán ma túy cho Nguyễn Văn Vương mà có.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 30/01/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện GT).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2018/HS-ST ngày 09/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;