TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 10/2018/HSPT NGÀY 15/03/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 15/3/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2018/TLPT-HS ngày 22/01/2018 đối với bị cáo Nguyễn Thành L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2018/HS-ST ngày 14/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Gia Lai.
* Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Thành L, sinh ngày 19/11/1988. Trú tại: thôn H, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; Học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Tạ Thị L; có vợ và 01 con; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt.
* Người bị hại:
Anh Nguyễn Thanh T. Sinh năm 1982. Trú tại: thôn Hoàng Tiên, xã la Phin, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 22/5/2017, bị cáo Nguyễn Thành L đang ở nhà thì nghe tiếng nói to của anh trai ruột là Nguyễn Thanh T đang cãi nhau bên nhà mẹ là bà Tạ Thị L. Bị cáo L sang nhà bà Tạ Thị L thì thấy anh Nguyễn Thanh T đang chửi mẹ, bị cáo L nói anh T về nhà đi thì anh T nói không phải việc của bị cáo L. Vì tức giận anh T xúc phạm mẹ nên bị cáo L cầm cái chảo ném vào cổng chỗ anh T đang đứng và nói “Anh không về tôi đánh anh đó”, anh T nói “Tao thách mày”. Bị cáo L tiến lại gần đẩy anh T ra khỏi cổng thì anh T nói “Tao thách mày bước ra ngoài đường”. Lúc này bị cáo L và anh T tiếp tục đẩy qua đẩy lại, bị cáo L cúi nhặt nửa viên gạch ở cổng hù dọa anh T thì chị Trịnh Thanh H là vợ bị cáo L can ngăn nên cả hai đi về nhà. Khi đi bị cáo L nói “Tao về lấy gậy sang đánh chết mày”, anh T quay lại nói “Tao thách mày bước qua nhà tao” sau đó về nhà dọn đồ. Bức xúc do anh T thách đố nên bị cáo L về nhà cầm một cây típ sắt dài 63cm, đường kính 2,5cm, hình tròn, trên đầu có đục lỗ và cột một sợi dây dù màu xanh đi sang nhà anh T. Thấy anh T hai tay cầm hai cây sắt dùng để móc lốp xe công nông đứng trước của ga-ra sửa xe, bị cáo L đi đến, khi bị cáo L và anh T đứng đối diện nhau bị cáo L cầm cây sắt chỉ vào mặt anh T và nói “Giờ ông thích gì” thì anh T nói “Thằng này láo”. Ngay lúc này, tay trái anh T cầm cây típ sắt gạt cây típ sắt của bị cáo L sang một bên, tay phải anh T cầm cây típ sắt cúi xuống đánh trúng vào chân trái của bị cáo L. Trong lúc anh T đang cúi người thì bị cáo L tay phải cầm típ sắt đánh một cái từ trên xuống, từ phải sang trúng vào đầu trượt xuống cổ làm anh T ngã xuống đất. Lúc này bà Tạ Thị L đang đứng chỗ hai anh em đang đánh nhau, bị cáo L nói bà Tạ Thị L đến xem anh T thế nào. Khi bà Tạ Thị L đến thấy anh T nằm yên nên gọi mọi người đến giúp sau đó anh T được vợ và một số người hàng xóm đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện quân y 211 tỉnh Gia Lai đến ngày 30/5/2017 thì xin xuất viện và điều trị ngoại trú.
Sau khi anh T được đưa đi cấp cứu thì bị cáo L về nhà lấy xe máy và tiền đi theo sau, đến nơi bị cáo L đưa số tiền 1.500.000 đồng cho anh Nguyễn Mạnh H và nhờ anh H đưa lại cho chị N (vợ anh T) và anh T để chi viện phí. Khoảng 3 giờ sáng thì bị cáo L đi về nhà. Sau khi anh T xuất viện, bị cáo L đến nhà anh T xin lỗi và xin được bồi thường chi phí điều trị nhưng không được anh T chấp nhận.
Ngày 05/5/2017, anh Nguyễn Thanh T làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với Nguyễn Thành L.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 111/TGT-TTPY ngày 27/7/2017, Trung tâm Giám định pháp y tỉnh Gia Lai kết luận: Nguyễn Thanh T bị vỡ rạn xương hộp sọ phía ngoài vùng trán cung mày bên trái dài 1,8cm, không di lệch 8%. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 8%.
Tại bản án sơ thẩm số 66/2018/HS-ST ngày 14 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Gia Lai đã quyết định:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Áp dụng Điều 33; điểm a khoản 1 Điều 104; các điểm b, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L 08 (tám) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng theo luật định.
Trong thời hạn luật định, bị cáo Nguyễn Thành L có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và nêu lý do là sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp đủ tiền để bồi thường thiệt hại cho bị hại như quyết định của bản án sơ thẩm; bị hại đã đồng ý xin khoan hồng cho bị cáo; bị cáo có con nhỏ, mẹ bị bệnh.
Người bị hại (anh Nguyễn Thanh T) có ý kiến xin Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát cho rằng bị cáo phạm tội cũng xuất phát từ một phần lỗi của bị hại; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Mặt khác, sau khi xét xử sơ thẩm đã nộp đủ tiền bồi thường cho bị hại, thể hiện rõ hơn sự ăn năn hối cải; và tại phiên tòa phúc thẩm bị hại xin khoan hồng cho bị cáo; đây là những tình tiết giảm nhẹ mới cần được áp dụng cho bị cáo. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thành L khai nhận hành vi như đã khai tại phiên tòa sơ thẩm. Đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được, có tại hồ sơ vụ án, thấy phù hợp, đủ cơ sở khẳng định rằng:
[2] Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 22/5/2017, do có mâu thuẫn với anh trai là Nguyễn Thanh T, bị cáo Nguyễn Thành L đã sử dụng một cây típ sắt dài 63cm, đường kính 2,5cm đánh trúng vào đầu trượt xuống cổ anh T, làm anh T bị tổn hại 8% sức khỏe.
[3] Xét mặc dù tỷ lệ tổn hại sức khỏe do bị cáo gây ra cho anh T chỉ là 8%, nhưng bị cáo đã sử dụng cây típ sắt là “hung khí nguy hiểm”, và người bị hại có đơn yêu cầu khởi tố, nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 là có cơ sở, đúng người, đúng tội.
[4] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, thấy rằng: Khi quyết định hình phạt, Tòa sơ thẩm đã xem xét nguyên nhân, điều kiện dẫn đến việc phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, áp dụng đúng khung hình phạt, và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, từ đó xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù, với mức hình phạt 8 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như án sơ thẩm đã nêu, đó là: bị cáo phạm tội do có một phần lỗi của bị hại đã có lời lẻ to tiếng với mẹ bị cáo (cũng là mẹ bị hại), và dùng hung khí đánh vào chân bị cáo trước; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, tự nguyện nộp tiền bồi thường cho bị hại. Mặt khác, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo nộp thêm tiền bồi thường cho bị hại, thể hiện rõ hơn sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại có ý kiến xin Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới cần được xem xét, áp dụng cho bị cáo. Qua đó xác định bị cáo phạm vào tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt (chưa có tiền án tiền sự), có nơi cư trú rõ ràng, nên không cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội, mà giao cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục, thấy cũng đủ tác dụng cải tạo. Do vậy, chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.
[5] Do kháng cáo được chấp nhận, bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Từ các nhận định trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xử:
1. Sửa bản án sơ thẩm:
Áp dụng Điều 33; điểm a khoản 1 Điều 104; các điểm b, h, p khoản 1; khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, xử:
- Phạt bị cáo Nguyễn Thành L 08 (tám) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn gian thử thách là 16 tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (15/03/2018).
- Giao bị cáo Nguyễn Thành L cho Ủy ban nhân dân xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
2. Bị cáo Nguyễn Thành L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 10/2018/HSPT ngày 15/03/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 10/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về