TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 10/2017/DS-ST NGÀY 16/10/2017 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
Ngày 16/10/2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2015/TLST – DS, ngày 02 tháng 11 năm 2015 về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2017/QĐXXST- DS, ngày 14/8/2017 giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Bà Lâm Thị T, sinh năm 1938;
Bà Chế Thị Mỹ D, sinh năm 1970.
Cùng địa chỉ: Khu dân cư số 6, thôn Phước T, xã Đức T, huyện Mộ Đ, tỉnh Quảng Ngãi.
Bà Chế Thị L, sinh năm 1963.
Địa chỉ: 170 Phạm Văn Đ, thành phố Quảng N, tỉnh Quảng Ngãi.
Bà Chế Thị Mỹ H, sinh năm 1965;
Ông Chế Văn D, sinh năm 1968.
Cùng địa chỉ: Thôn 1, xã Đức C, huyện Mộ Đ, tỉnh Quảng Ngãi.
Ông Chế Văn D, sinh năm 1972
Địa chỉ: Số 04 Hùng V, khu phố 2, phường Hiệp P, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Thanh H, sinh năm1955.
Địa chỉ: 170 Phạm Văn Đ, thành phố Quảng N, tỉnh Quảng Ngãi – là người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn (các văn bản ủy quyền lập ngày 28, 29/3/2016 và 19/4/2016)
- Bị đơn: Huỳnh Duy L, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Khu dân cư số 6, thôn Phước T, xã Đức T, huyện Mộ Đ, tỉnh Quảng Ngãi.
Các đương sự có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Trong đơn khởi kiện ngày 22/7/2015, đơn khởi kiện bổ sung ngày 05/10/2015, các lời khai tại Tòa án và tại phiên toà đại diện nguyên đơn trình bày: Ông Chế Văn H là chồng bà Lâm Thị T và là cha của những người con: Chế Thị L, Chế Thị Mỹ H, Chế Văn D, Chế Thị Mỹ D và Chế Văn D. Ngoài ra, ông Hoa không còn người vợ, người con nào khác. Ngày 04/7/2015 ông Chế Văn Hoa chết không để lại di chúc. Cha mẹ ông Chế Văn H là ông Chế B và bà Phạm Thị Q đều đã chết trước ông H. Theo bản án số 165/2012/HSPT ngày 12/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi có tuyên “ dành quyền khởi kiện vụ án dân sự khác khi có yêu cầu của ông Chế Văn H đối với khoản tiền tháo ốc vít sau này khi có chỉ định của cơ quan y tế”
Nay ông H đã chết, nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông H là do ông H nhập viện điều trị mổ tháo ốc vít. Căn cứ vào bản án hình sự phúc thẩm đã tuyên nay tôi đại diện cho vợ và các con ông H yêu cầu ông Huỳnh Duy L phải bồi thường thiệt hại gồm các khoản tiền sau:
-Chi phí bồi thường thiệt hại về sức khỏe và lo hậu sự tang lễ:
+ Tiền nằm viện và chi phí khác là 46.834.000đồng;
+ Tiền bồi dưỡng cho ông H là 2.250.000đồng;
+ Tiền tàu xe ra vào Quảng Ngãi và TP. Hồ Chí Minh là 23.062.000 đồng
+ Tiền lo hậu sự, tang lễ là 40.000.000đồng;
+ Chi phí đào huyệt và xây phần mộ là 40.500.000đồng. Tổng cộng là 152.646.000đồng. Số tiền này là do bà T trực tiếp chi phí trong thời gian ông H nằm viện nên yêu cầu giao cho bà Tấn được nhận.
- Tiền mất thu nhập của người nuôi dưỡng: Trả cho bà T và ông Chế Văn D 17.200.000đồng vì bà Tấn và ông D trực tiếp nuôi dưỡng ông Chế Văn H trong thời gian ông H điều trị mổ tháo ốc vít.
- Tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng của ông Chế Văn H (chết) là 100.000.000đồng cho các ông, bà Lâm Thị T, Chế Thị Mỹ D, Chế Văn D, Chế Thị L, Chế Thị Mỹ H, Chế Văn D được hưởng thừa kế đồng thời công nhận khoản tiền bồi thường này cho bà Lâm Thị T được nhận vì các đồng thừa kế không yêu cầu chia thừa kế theo kỹ phần. Ngoài ra không yêu cầu gì thêm.
* Tại bản tự khai ngày 18/11/2015, bản trình bày ý kiến ngày 02/12/2015, quá trình làm việc tại Toà án bị đơn ông Huỳnh Duy L trình bày:
Ông không đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của các nguyên đơn vì các lý do sau: Ông là bị cáo trong vụ án hình sự mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ngãi đã xét xử, quyết định của bản án đã buộc ông bồi thường toàn bộ phần dân sự mà không xét đến nguyên nhân vụ án, mức độ lỗi (do ông tự vệ nhưng vượt qua giới hạn tự vệ) và cũng không tách phần dân sự để giải quyết riêng một vụ án dân sự khác. Tuy nhiên ông đã chấp hành xong bản án hình sự và đã bồi thường thiệt hại số tiền 115.019.000 đồng, lãi và các khoản án phí gia đình ông cũng đã chấp hành xong. Trong bản án hình sự phúc thẩm số 165/2012/HSPT ngày 12/9/2012 có nêu “dành quyền khởi kiện vụ án dân sự khác khi có yêu cầu của ông Chế Văn H đối với khoản tiền tháo ốc vít sau này khi có chỉ định của cơ quan y tế”, đây là quyền dân sự chủ quan của ông Chế Văn H vì ông H có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và pháp luật không điều chỉnh trường hợp ông H chết mà những người thừa kế được khởi kiện yêu cầu trên. Ông H chết không phải do ông gây ra mà nguyên nhân trực tiếp là do cơ quan y tế, do cơ địa, do tuổi già; ông H đã chết nên phải đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật dân sự và phải trả lại đơn khởi kiện cho những người không có quyền khởi kiện. Việc ông H mổ vít là trái quy định của ngành y vì ngành y quy định: Nếu người già mà mổ ốc vít thì người đó phải đủ sức khỏe và chỉ trong vòng 8 tháng đến 1 năm kể từ ngày lắp ốc vít nhưng ông H đi tháo ốc vít là đúng 4 năm kể từ ngày ông H, vợ ông H và các con ông H đánh ông bị ông đánh lại gãy chân và được lắp ốc vít. Như vậy việc ông Hoa đi tháo ốc vít không thuộc trường hợp có chỉ định của cơ quan y tế như bản án đã quy định mà theo giấy chuyển viện thể hiện ông H “đi ngã, xin vào viện chẩn đoán lâm sàng: Hoại tử khớp xương háng”. Các nguyên đơn là người thừa kế không có quyền khởi kiện, do vậy ông không đồng ý bồi thường bất cứ khoản nào theo yêu cầu của các nguyên đơn.
* Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Mộ Đức phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự cho rằng Thẩm phán, Thư ký tòa án, các Hội thẩm nhân dân và nguyên đơn, bị đơn, đều thực hiện theo đúng quy định của Luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử tiến hành nghị án
- Về nội dung: áp dụng Điều 688 Bộ luật dân sự 2015; Điều 604, Điều 605, Điều 609 Bộ luật dân sự 2005; Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Buộc bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn 11.970.000đồng. Trong đó: Chi phí phương tiện đưa ông Hoa đi mổ tháo ốc vít là 3.768.000đồng, chi phí nằm viện và điều trị là 3.402.000đồng, chi phí bồi dưỡng trong thời gian nằm viện 2.250.000đồng,tiền thu nhập bị mất của người chăm sóc ông H là 2.550.000đồng.
* Các chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp gồm có:
Cước taxi ngày 16/5/2015 đi từ Thi Phổ đến Ga Quảng Ngãi với số tiền 400.000đồng; Vé tàu hỏa ngày 9/5/2015 đi từ Quảng Ngãi đến Sài Gòn với số tiền 594.000đồng (ngày đi 16/5/2015); Vé tàu hỏa ngày 9/5/2015 đi từ Quảng Ngãi đến Sài Gòn với số tiền 594.000đồng (ngày đi 16/5/2015); Vé tàu hỏa ngày 9/5/2015 đi từ Quảng Ngãi đến Sài Gòn với số tiền 694.000đồng (ngày đi 16/5/2015); Biên lai thu tiền viện phí ngày 03/7/2015 của bệnh viện Chợ Rẫy ghi số tiền 6.398.000đồng; Biên lai thu viện phí ngày 03/7/2015 của bệnh viện Chợ Rẫy ghi số tiền 315.000đồng; Biên lai thu viện phí ngày 03/7/2015 của bệnh viện Chợ Rẫy ghi số tiền 12.830.000đồng; Biên lai thu tiền viện phí ngày 03/7/2015 của bệnh viện Chợ Rẫy ghi số tiền 15.958.000đồng; Giấy vận chuyển ngày 04/7/2015 từ bệnh viện Chợ Rẫy về Quảng Ngãi ghi số tiền 10.000.000đồng; Biên lai cước taxi ngày 24/6/2015 đi từ Ga Sài Gòn đến ngã tư Thủ Đức đến Bệnh viện Chợ Rẫy ghi số tiền 800.000đồng; Vé tàu hỏa ngày 01/7/2015 đi từ Sài Gòn đến Quảng Ngãi với số tiền 933.000đồng (ngày đi 04/7/2015); Vé tàu hỏa ngày 01/7/2015 đi từ Quảng Ngãi đến Sài Gòn với số tiền 747.000đồng (ngày đi 16/5/2015); Biên lai thu tiền viện phí ngày 03/6/2015 của bệnh viện Chấn thương chỉnh hình ghi số tiền 18.583.000đồng;
Hóa đơn bán hàng ngày 03/6/2015 của bệnh viện Chấn thương chỉnh hình ghi số tiền 624.000đồng; Hóa đơn bán lẻ y cụ không ghi ngày của bệnh viện Chấn thương chỉnh hình ghi số tiền 120.000đồng; Tờ giấy ghi số tiền 2.514.000đồng (bấm kèm theo đơn thuốc ngày 02/6/2015); Cước taxi ngày 19/5/2015 đi từ 04 Hùng Vương đến Chấn thương chỉnh hình y ghi số tiền500.000đồng; Vé tàu hỏa ngày 16/6/2015 đi từ Quảng Ngãi đến Sài Gòn với số tiền 763.000đồng (ngày đi 24/6/2015); Vé tàu hỏa ngày 16/6/2015 đi từ Quảng Ngãi đến Sài Gòn với số tiền 953.000đồng (ngày đi 24/6/2015); Hóa đơn taxi ngày 17/5/2015 đi từ Quận 3 đến Thủ Đức ghi số tiền 300.000 đồng; Vé xe khách ghi ngày 24/5/2015 đi ngày 26/5/2015 từ Quảng Ngãi đến TP. Hồ Chí Minh ghi số tiền 320.000đồng; Vé xe khách ghi ngày 31/5/2015 đi ngày 05/6/2015 từ Quảng Ngãi đến TP. Hồ Chí Minh ghi số tiền 320.000đồng; Phiếu đặt vé xe khách ghi ngày 20/5/2015 đi ngày 30/5/2015 từ Quảng Ngãi đến TP. Hồ Chí Minh ghi số tiền 350.000đồng; Hóa đơn giá trị gia tăng của công ty TNHH y tế Hòa Hảo đề ngày 22/5/2015 ghi số tiền 120.000đồng; Giấy nhận tiền vật liệu xây dựng và công thợ làm mộ ghi ngày20/8/2015 ghi số tiền 40.000.000đồng; Hóa đơn bán hàng (quan tài, nhạc điếu) không đề ngày ghi số tiền 40.000.000đồng. Tổng cộng các hóa đơn, chứng từ nguyên đơn cung cấp: 143.412.830đồng.
*Các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Không có.
* Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Nguyên đơn yêu cầu bồi thiệt hại về sức khỏe và chi phí lo hậu sự, tang lễ tổng cộng 152.646.000đồng; chi phí mất thu nhập của người nuôi dưỡng: 17.200.000đồng. Chi phí bồi thường tính mạng bị xâm phạm là 100.000.000đồng. Tổng cộng thiệt hại là 269.846.000đồng. Nguyên đơn cho rằng bản án hình sự phúc thẩm đã tuyên dành quyền khởi kiện cho ông H trong trường hợp mổ tháo ốc vít nên khi ông H mổ tháo ốc vít dẫn đến chết, vợ và con ông H trực tiếp chi phí nuôi ông H ở bệnh viện và đưa về nhà mai táng, lo toàn bộ hậu sự nên yêu cầu ông L phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Bị đơn không đồng ý bồi thường bất kỳ khoản chi phí nào với lý do bản án hình sự phúc thẩm dành quyền khởi kiện cho ông H thì chỉ có ông H mới được quyền khởi kiện nhưng ông H đã chết, những người khác không có quyền khởi kiện. Mặt khác trong giấy chuyển viện của bệnh viện Quảng Ngãi ghi: người nhà khai “nay đi ngã, xin vào viện” do vậy ông H đi té ngã, nhập viện chứ không phải ông Hoa nhập viện để mổ tháo ốc vít theo chỉ định của cơ quan y tế.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa các đồng nguyên đơn là bà Lâm Thị T, ông Chế Thị L, bà Chế Thị Mỹ H, ông Chế Văn D, bà Chế Thị Mỹ D, ông Chế Văn D (là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Chế Văn H) vắng mặt nhưng có ủy quyền cho ông Lê Thanh H; theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Bị đơn ông Huỳnh Duy L khiếu nại yêu cầu hủy bỏ thông báo thụ lý vụ án, đình chỉ giải quyết vụ án là không có căn cứ nên không được chấp nhận. [2] Về nội dung:
Ngày 29/5/2011, ông Huỳnh Duy L và ông Chế văn H có xảy ra xô sát nhau, ông L dùng cây sắt dài khoảng 10, O 49 đánh từ trên xuống nhưng được ông Cao L đỡ thì bị ông L tiếp tục cầm cây quơ ngang trúng vào đùi ông H. Ngày 10/10/2011 phòng giám định pháp y tỉnh Quảng Ngãi giám định số 174/GĐPY kết luận ông H gãy liên mấu chuyển xương đùi (T) tỉ lệ thương tật tạm thời là 10%; ngày 11/11/2011 ông H có đơn yêu cầu giám định lại thương tích vì cho rằng giám định trước đây không có ông, ông đang điều trị tại thành phố Hồ Chí Minh, chỉ căn cứ theo bệnh án. Ngày 24/11/2011 Phòng giám định pháp y tỉnh Quảng Ngãi có kết luận số 278/2011/GĐPY kết luận ông H “gãy đầu trên xương đùi” với tỷ lệ thương tật là 36%.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 165/2012/HSPT ngày 12/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tuyên xử “Dành quyền khởi kiện vụ án dân sự khác khi có yêu cầu của ông Chế Văn H đối với khoản tiền tháo ốc vít sau này khi có chỉ định của cơ quan y tế”.
Ngày 04/5/2015 ông Chế Văn H cấp cứu nhập viện tại bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi; lý do nhập viện: Người nhà khai bệnh nhân bị gãy xương đùi cách 01 tháng, hiện tại té ngã đau tức mông đùi vào viện. Ngày 19/5/2015 ông Chế Văn H chuyển đến Bệnh viện chấn thương chỉnh hình thành Phố Hồ Chí Minh; ngày 01/6/2015 ông Hoa điều trị mổ rút đinh nẹp vít, thay khớp háng lưỡng cực không xi măng (Bipoler).
Ngày 22/7/2015 các đồng nguyên đơn khởi kiện và sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện ngày 05/10/2015 yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại là có căn cứ.
[3] Xét các yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn.
[3.1] Đối với chi phí nằm viện và chi phí khác số tiền 46.834.000đồng. Trong vụ án này các nguyên đơn cung cấp tài liệu chứng cứ là “giấy chuyển tuyến” của bệnh viện Đa khoa Quảng Ngãi có ghi “người nhà khai bệnh nhân bị gãy xương đùi cách 1 tháng. Hiện tại té ngã đau tức mông đùi. Vào viện” (BL 215), theo các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ từ các bệnh viện Nguyễn Trãi, Chợ Rẫy, Chấn thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh và qua lời khai của các nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn thì ông Chế Văn H nhập viện điều trị tại các bệnh viện với nội dung điều trị: mổ tháo ốc vít.
Trong bệnh án ngoại chẩn của Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh (phần: bệnh sử + tiền căn bệnh lý có ghi “4 năm trước, mổ KHX DHS mấu chuyển đùi (T) nay đến khám với đau khó đi, nhập viện”, phần xử trí có ghi: Mổ tháo dụng cụ DHS, thay chõm bipolar háng (T) (BHYT); bệnh án điều trị nội trú bệnh viện Chấn thương chỉnh hình phần phương pháp mổ có ghi: “ thay bipolar (T) không ciment” phần chẩn đoán có ghi: “ hoại tử chỏm xương đùi (T) / DHS 4 năm”. Phần hướng điều trị và tiên lượng có ghi: “nhập nội khớp đợi mở tháo dụng cụ thay chõm lưỡng cực” phần tóm tắt bệnh án lúc ra viện có ghi: “01/6/2015 BN lên chương trình mổ rút dụng cụ nẹp vít, thay bipolar (T) không ciment”.
Ngày 25/4/2017 Bệnh viện chấn thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh có Văn bản số 794/BVCTCH-KHTH về việc trả lời xác định chi phí riêng việc mổ rút dụng cụ nẹp vít của ông Chế Văn H: Bệnh viện không xác định được “Chi phí riêng việc điều trị cho việc mổ rút dụng cụ nẹp vít và những khoảng chi phí để phục vụ cho việc mổ rút dụng cụ nẹp vít của ông Chế Văn H vào ngày 01/6/2015” nhưng đối với những trường hợp tháo dụng cụ DHS trên bệnh nhân lành xương (chỉ tháo dụng cụ kết hợp xương, không kèm kết hợp xương hoặc thay khớp), là loại phẫu thuật tháo nẹp vít sau kết hợp xương một bên (Theo thông tư 37 – năm 2017), giá đối với bệnh nhân thu phí là 2.000.000đồng, đối với bệnh nhân có sử dụng bảo hiểm y tế (BHYT) là 1.681.000đồng. Năm 2015, giá bệnh nhân thu phí và BHYT là 1.500.000đồng. (giá trên chỉ bao gồm chi phí phẫu thuật, không bao gồm chi phí xét nghiệm, tiền giường, tiền thuốc).
Theo tài liệu các nguyên đơn cung cấp thì tiền giường ông H nằm điều trị tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh là 624.000đồng và tiền hai lần xét nghiệm 02 lần mỗi lần 100.000đồng.
Như vậy, trong quá trình ông H điều trị “thay bipolar (T) không ciment” tại của Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh với số tiền 1.500.000đồng + 642.000đồng + 200.000đồng. Do đó, chỉ chấp nhận một phần với số tiền là: 2.324.000đồng.
[3.2] Đối với chi phí bồi dưỡng cho ông H 2.250.000đồng. Trong thời gian ông H điều trị cần phải bồi dưỡng để đảm bảo sức khỏe nên cần mua những thứ để bồi dưỡng trong thời gian điều trị. Vì vậy, số tiền bồi dưỡng 2.250.000đồng là phù hợp nên được chấp nhận.
[3.3] Đối với khoản tiền xe ra vào Quảng Ngãi và Thành phố Hồ Chí Minh là 23.062.000đồng. Việc ông H chuyển vào Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh để điều trị là cần thiết nhưng việc ông H đi thì phải có người đi theo nhưng chỉ với 01 là đủ chứ không nhất thiết phải nhiều người. Tại thời điểm ông Hoa chuyển viện từ Quảng Ngãi đến thành phố Hồ Chí Minh với các chi phí là: Tiền cước taxi từ Thi Phổ đến ga Quảng Ngãi là 400.000đồng và từ ga Quảng Ngãi về Thi Phổ là 400.000đồng; tiền cước taxi từ ga Sài Gòn đến Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh là 500.000đồng và từ Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh đến ga Sài Gòn là 500.000đồng; tiền vé tàu cứng điều hòa từ Quảng Ngãi đến thành phố Hồ Chí Minh là 694.000đồng, đối với người cao tuổi là 594.000đồng và tiền vé tàu nằm điều hòa từ thành phố Hồ Chí Minh đến Quảng Ngãi là 933.000đồng, đối với người cao tuổi là 747.000đồng; tổng cộng 4.768.000đồng. Do đó, chỉ chấp nhận một phần với số tiền là 4.768.000đồng.
[3.4] Tiền mất thu nhập của người chăm sóc trong thời gian ông H điều trị mổ tháo ốc vít là 17.200.000đồng (trả cho bà T, ông D). Bà Tấn là vợ ông H, bà T đã già nên không thể trực tiếp chăm sóc cho ông Hoa trong thời gian điều trị tại Bệnh viện nên chỉ có ông D là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ông H trong thời gian điều trị tại Bệnh viện. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động. Theo tài liệu do nguyên đơn cung cấp và theo xác minh, thu thập chứng cứ thì thời gian ông H điều trị tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 19/5/2015 đến ngày 01/6/2015 là 15 ngày. Theo mặt bằng chung tại thời điểm tháng 5/2015 thì ngày công lao động phổ thông của 01 người là 150.000đồng. Do đó, chỉ chấp 01 người người nuôi dưỡng ông H trong thời gian điều trị tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh với số tiền 17 ngày (tính ngày đi và ngày về) x 150.000đồng = 2.550.000đồng.
[3.5] Nguyên đơn yêu cầu đối với các khoản như: Tiền lo hậu sự, tang lễ là 40.000.000đồng, chi phí đào huyệt và xây phần mộ 40.500.000đồng, tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng cho ông Chế Văn H là 100.000.000đồng. Theo tài liệu do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ thì ông H nhập viện tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 19/5/2015 đến ngày 01/6/2015 thì ông Hoa xuất viện. Theo giấy ra viện ngày 03/7/2015 tại khoa hô hấp Bệnh viện Chợ Rẫy thì ông H vào viện lúc 19 giờ 50, ngày 03/6/2015; ra viện lúc: giờ ngày 03/7/2015. Chẩn đoán: Viêm phổi nặng- suy hô hấp- Bệnh tim máu cục bộ- Suy thận cấp/Mở khí quản. Phương pháp điều trị: Thở máy- Kháng sinh. Lời dặn thầy thuốc: Bệnh nặng- Thân nhân xin về và ông L cũng không xâm phạm đến tính mạng của ông H. Do đó, không có căn cứ chấp nhận toàn bộ các khoản yêu cầu trên của nguyên đơn.
[3.6] Như vậy bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn các khoản với số tiền là:Chi phí tháo ốc vít 1.500.000đồng, chi phí giường bệnh 642.000đồng, chi phí xét nghiệm 200.000đồng; chi phí khoản tiền bồi dưỡng cho ông H 2.250.000đồng; Chi phí tiền xe, tiền tàu ra vào Quảng Ngãi và Thành phố Hồ Chí Minh 4.768.000đồng; Tiền mất thu nhập của người nuôi dưỡng trong thời gian ông H điều trị mổ tháo ốc vít 2.550.000đồng. Tổng cộng: 11.910.000đồng.
[4] Bị đơn không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn vì: Ông H chết không phải do ông L gây ra mà nguyên nhân trực tiếp là do cơ quan y tế, do cơ địa, do tuổi già; ông H đã chết nên phải đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật dân sự và phải trả lại đơn khởi kiện cho những người không có quyền khởi kiện. Việc ông H mổ vít là trái quy định của ngành y vì ngành y quy định: Nếu người già mà mổ ốc vít thì người đó phải đủ sức khỏe và chỉ trong vòng 08 tháng đến 01 năm kể từ ngày lắp ốc vít nhưng ông H đi tháo ốc vít là đúng 4 năm kể từ ngày ông H, vợ ông Hoa và các con ông H đánh ông bị ông đánh lại gãy chân và được lắp ốc vít. Như vậy, việc ông H đi tháo ốc vít không thuộc trường hợp có chỉ định của cơ quan y tế như bản án đã quy định mà theo giấy chuyển viện thể hiện ông H “đi ngã, xin vào viện chẩn đoán lâm sàng: Hoại tử khớp xương háng”. Các nguyên đơn là người thừa kế không có quyền khởi kiện, do vậy ông không đồng ý bồi thường bất cứ khoản nào theo yêu cầu của các nguyên đơn. Ý kiến của bị đơn là không có cơ sở nên không được chấp nhận.
[5] Về án phí: Nguyên đơn được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm; bị đơn được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 12, Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[6] Ý kiến của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, Điều 228, Điều 235, Điều 271, Điều 273Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 604, Điều 605, Điều 609 Bộ luật dân sự năm2005; Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm d, đ khoản 1 Điều 12, Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 08/7/2006 củaHội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lâm Thị T, bà Chế Thị L, bà Chế Thị Mỹ H, ông Chế Văn D, bà Chế Thị Mỹ D, ông Chế Văn D.
Buộc bị đơn ông Huỳnh Duy L bồi thường cho nguyên đơn bà Lâm Thị T, bà Chế Thị L, bà Chế Thị Mỹ H, ông Chế Văn D, bà Chế Thị Mỹ D, ông Chế Văn D các khoản tiền: Tiền chi phí tháo ốc vít 1.500.000đồng, chi phí giường bệnh 642.000đồng, chi phí xét nghiệm 200.000đồng; chi phí khoản tiền bồi dưỡng cho ông Hoa 2.250.000đồng; chi phí tiền xe, tiền tàu ra vào Quảng Ngãi và Thành phố Hồ Chí Minh 4.768.000đồng; tiền mất thu nhập của người nuôi dưỡng trong thời gian ông H điều trị mổ tháo ốc vít 2.550.000đồng. Tổng cộng: 11.910.000đồng (Mười một triệu chín trăm mười nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Lâm Thị T, bà Chế Thị L, bà Chế Thị Mỹ H, ông Chế Văn D, bà Chế Thị Mỹ D, ông Chế Văn D yêu cầu bị đơn ông Huỳnh Duy L các khoản chi phí như: Tiền lo hậu sự, tang lễ là 40.000.000đồng; chi phí đào huyệt và xây phần mộ 40.5000.000đồng; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng cho ông Chế Văn H là 100.000.000đồng; tiền nằm viện và chi phí khác số tiền 44.510.000ồng; tiền xe ra vào Quảng Ngãi và Thành phố Hồ Chí Minh là 18.294.000đồng; tiền mất thu nhập của người nuôi dưỡng trong thời gian ông Hoa điều trị mổ tháo ốc vít là 14.650.000đồng.
3. Về án phí: Nguyên đơn, bị đơn được miễn nộp tiền án phí theo quy định của pháp luật. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 10/2017/DS-ST ngày 16/10/2017 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm
Số hiệu: | 10/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộ Đức - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/10/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về