Bản án 101/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 101/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 104/2021/TLST-HS, ngày 09/9/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2021/QĐXXST-HS, ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Lầu A D (tên gọi khác: Không) sinh năm 1979, tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản B, xã R, huyện G, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hóa: 1/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lầu Sáy L (đã chết) và con bà Mùa Thị Kh - sinh năm 1955; có vợ Vừ Thị D, sinh năm 1977 và 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1994, con nhỏ nhất sinh năm 2005; Có 01 tiền án, năm 2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 15 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, đến ngày 26/7/2017 ra trại. Tiền sự: Không.

Nhân thân: năm 2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 15 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy đến ngày 26/7/2017 ra trại, chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/6/2021 và tạm giam từ ngày 11/6/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên cho đến nay. Có mặt.

2. Vàng A S (tên gọi khác: Vàng Khua S) sinh năm 1966, tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản H, xã S, huyện G, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hóa: không; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vàng A V (đã chết) và con bà Giàng Thị M - sinh năm 1934; có vợ Tráng Thị M, sinh năm 1972 và 04 người con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/6/2021 và tạm giam từ ngày 11/6/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên cho đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Vàng A S: Bà Lê Thị Xuân - Luật sư thực hiện Trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lầu A D: Bà Nguyễn Thị Phượng - Luật sư thực hiện Trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

- Người phiên dịch cho các bị cáo: Ông S A Chá – Sinh năm 1990; Địa chỉ: tổ dân phố 16, phường Mường thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 02/6/2021 Lầu A D đèo vợ đi đến khu vực chợ ở xã Rạng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên mục đích để mua dao, cuốc về phát nương làm rẫy thì gặp một người đàn ông dân tộc thái giới thiệu tên là Chiến nhà ở bản Xuân Tre, xã Búng lao, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên nói với D là Chiến có Heroine bán giá 10.000.000 đồng/01 cây. D nói với Chiến là không có tiền mua, thì Chiến bảo trả trước một ít còn lại cho D nợ. D đặt mua 03 cây Heroine của Chiến và hai bên hẹn khoảng 11 giờ ngày 03/6/2021 gặp nhau ở ngã ba xã Rạng Đông để trao đổi mua bán. Sau khi gặp Chiến D đèo vợ về nhà và mang chiếc xe máy Wave RSX ra nga ba Minh Thắng, huyện Tuần Giáo bán được 15.000.000đ. Khoảng 11 giờ trưa ngày 03/6/2021 D lấy xe máy của con gái tên là Lầu Thị Nhung ra điểm hẹn gặp Chiến đi cùng với một người đàn ông D không biết tên, địa chỉ D mua của Chiến 03 cây Heroine với giá 30.000.000đ, D trả trước 15 triệu đồng, trên đường về D lấy ra một ít Heroine, số Heroine còn lại D giấu vào trong khe đá ven đường. Đến ngày 07/6/2021 D đi xe máy sang nhà Vàng A S, D mang Heroine ra cùng S sử dụng bằng hình thức đốt hít. S nói với D có bạn tên Toán cần mua Heroine, D nói có 03 cây Heroine bán với giá 14 triệu đồng/01 cây. Sáng ngày 08/6/2021 Toán gọi điện thoại cho S, S bảo có 3 cây Heroine bán với giá 15 triệu đồng/01 cây, Toán đồng ý mua. Khoảng 11 giờ trưa ngày 09/6/2021 Toán đi xe máy đến nhà S, Toán chở S đến gặp hai người mua Heroine S không biết tên, địa chỉ cho S kiểm tra tiền; sau khi kiểm tra tiền xong S gọi điện thoại cho D nói là người mua ma túy đã đến, D đi xe máy đến chỗ cất giấu lấy Heroine cho vào túi quần bên trái D đang mặc, sau đó D đi xe máy đến bản Bon B, xã Rạng Đông, huyện Tuần Giáo thì gặp S và người mua, hai bên đang trao đổi mua bán thì tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo và Công an tỉnh Điện Biên đến kiểm tra phát hiện bắt quả tang Lầu A D, Vàng A S cùng vật chứng 86,84 gam Heroine, còn Toán và hai người mua Heroine điều khiển xe máy chạy thoát, tổ công tác không bắt được.

Tại Bản Kết luận giám định số: 687/GĐ-PC09, ngày 22/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

+ Khối lượng vật chứng thu giữ của Lầu A D, Vàng A S là 86,84 gam chất bột màu trắng.

- 02 (hai) mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lầu A D, Vàng A S gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Bản Cáo trạng số: 62/CT-VKS-P1, ngày 07/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố Lầu A D, Vàng A S xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, Điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lầu A D từ 18 đến 19 năm tù.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Vàng A S từ 16 đến 17 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 83,66 gam Heroine; tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel.

Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Tại phiên tòa những người bào chữa cho các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về tội danh và Điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố và bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến nguyên nhân dẫn đến bị cáo phạm tội, điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình đặc biệt khó khăn, không có việc làm ổn định, không có thu nhập, chủ yếu chông chờ vào làm nương rẫy, bản thân các bị cáo nhận thức còn nhiều hạn chế; Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo và áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vàng A S, không áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự và miễn án phí.

Lời nói sau cùng các bị cáo Lầu A D và Vàng A S đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, các bị cáo không bị oan sai và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm có cơ hội trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận:

- Bị cáo Lầu A D khai nhận: Ngày 02/6/2021 bị cáo đèo vợ đi chợ thì có người đàn ông tự giới thiệu tên là Chiến gặp D ở khu vực chợ, sau khi làm quen với nhau Chiến hỏi D có mua Heroine không, D nói không có tiền mua thì Chiến (người bán ma túy) nói, chỉ cần trả trước một ít còn lại cho nợ khi nào bán được thì trả hết tiền sau; sau khi nghe Chiến nói nên bị cáo mới nẩy sinh ý định mang xe máy của gia đình đi bán lấy tiền mua Heroine. Đến ngày 03/6/2021 Chiến bán cho D 03 cây Heroine với giá 30 triệu đồng, D trả trước cho Chiến 15 triệu đồng từ tiền bán xe. Sau khi mua được Heroine D lấy ra một ít mang về nhà, số còn lại cấu giấu tại khe đá ven đường, đến ngày 07/6/2021 D mang Heroine sang nhà Vàng A S và cùng S sử dụng bằng cách đốt hít.

- Bị cáo Vàng A S khai nhận: Khoảng ngày 05/6/2021 S đang ở nhà thì có người đàn ông đến chơi giới tên là Toán nhà ở tỉnh Sơn La hỏi S là có biết ai bán ma túy không mua giúp cho Toán 3 cây Hêroine; S nói với Toán là không có và không biết ai bán, Toán lại nói tiếp với S là cố gắng tìm hỏi giúp cho Toán. Ngày 07/6/2021 Lầu A D mang Heroine sang nhà Vàng A S và cùng với S sử dụng Heroine của D, trong lúc sử dụng S nói với D có người tên là Toán cần mua Heroine, nên D đã nói cho S biết là D đang có 03 cây Heroine bán với giá 14 triệu đồng/01 cây; ngày 08/6/2021 S gọi điện thoại cho Toán nói là đã tìm được người có 03 cây Heroine bán với giá bán 15 triệu đồng/01 cây; D không hứa hẹn sau khi bán được ma túy sẽ trả cho S bao nhiêu tiền mà D chỉ nói giá bán 14 triệu/cây, còn S bán được bao nhiêu thì S được hưởng.

Các bị cáo Lầu A D và Vàng A S đều khai nhận: Vào khoảng 15 giờ 15 phút, ngày 09/6/2021 tại khu vực Bản Bon B, xã Rạng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên; khi các bị cáo đang có hành vi mua bán trái phép 86,84 gam Heroin với ba đối tượng khác thì bị tổ công tác của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Điện Biên phối hợp với Công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang, còn ba người mua Heroine cầm tiền và điều khiển xe máy chạy thoát, tổ công tác không bắt được. Các bị cáo khai nguồn gốc số ma túy đó là của Lầu A D đã mua được từ trước của một người đàn ông dân tộc thái giới thiệu tên là Chiến, nhà ở bản Xuân Tre, xã Búng Lao, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên 03 cây Heroine với giá 30 triệu đồng (10.000.000 đồng/01 cây).

Lời khai nhận tội của các bị cáo Lầu A D và Vàng A S đúng như nội dung bản Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và được ghi nhận tại các biên bản ghi lời khai; Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 09/6/2021; Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ căn cứ để xác định vào ngày 09/6/2021 các bị cáo Lầu A D và Vàng A S đã có hành vi mua bán trái phép 86,84 gam Heroine với mục đích để kiếm lời.

nh vi nêu trên của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự:

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

…b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Các bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố các bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều luật viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, các bị cáo không bị oan sai.

[2]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Xét hành vi mua bán trái phép chất ma túy để bán kiếm lời của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng. Mặc dù biết việc tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do thiếu ý thức chấp hành pháp luật, vì mục đích kiếm lời và thỏa mãn nhu cầu của bản thân, các bị cáo đã cùng nhau cố ý trực tiếp mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời. Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật cần phải xử lý nghiêm.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Lầu A D có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Năm 2007 bị cáo Lầu A D bị Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 15 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy đến ngày 26/7/2017 bị cáo ra trại, chưa được xóa án tích; trong thời gian chấp hành án tại trại giam bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Do vậy, bị cáo Lầu A D phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự.

Bị cáo Vàng A S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và có anh trai ruột là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công Hạng Ba nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Đối với đề nghị của những người bào chữa về việc xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, bởi sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế, các bị cáo Lầu A D, Vàng A S sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo và đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vàng A S; không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo là có căn cứ chấp nhận một phần. Bởi lẽ khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc một cách toàn diện khách quan đến tính chất mức độ, hành vi, nhân thân của từng bị cáo để áp dụng hình phạt cho phù hợp.

- Căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa tương đối phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của từng bị cáo. Bởi lẽ, các bị cáo Lầu A D và Vàng A S không phải là do các bị cáo chủ ý đi tìm kiếm mua bán trái phép chất ma túy để kiếm lời mà đều do tác động khách quan mang lại; mặt khác do các bị cáo hám lời và phần nào cũng do sự kém hiểu biết xã hội, nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế, không vượt qua được những cám dỗ của đồng tiền bất chính, không làm chủ được bản thân nên đã bị các đối tượng xấu lợi dụng, dẫn dắt các bị cáo vào con đường phạm tội.

Hội đồng xét xử thấy rằng vụ án này có tính chất đồng phạm giản đơn, không phân công vai trò của từng người. Theo lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và phiên tòa cho thấy, người bán ma túy cho D không biết ở đâu; ba người mua đang giao dịch mua ma túy trái phép cùng với các bị cáo D và S khi bị phát hiện ôm tiền chạy thoát, cơ quan chức năng không bắt được. Do vậy, chưa có căn cứ vững chắc để xác định được mục đích, vai trò, trách nhiệm hình sự của từng đối tượng tham gia mua bán trái phép chất ma túy, mà chỉ dựa trên cơ sở duy nhất là lời khai nhận tội của các bị cáo. Hành vi vi phạm pháp luật của các bị cáo chỉ vì hám lợi nhất thời, đã được các lực lượng chức năng phát hiện và ngăn chặn kịp thời, chưa gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, nên khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo; tạo điều kiện cho các bị cáo nhận thức và chuộc lỗi lầm, tập trung cải tạo tốt và sớm được về nhà với gia đình; đồng thời để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Đảng và nhà nước, tính nhân đạo, tính nhân văn của pháp luật Việt Nam đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải về hành vi vi phạm pháp luật của mình đã gây ra; đồng thời vẫn đảm bảo sự trừng phạt nghiêm khắc, răn đe, phòng ngừa và trấn áp tội phạm ma túy trong giai đoạn hiện nay.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của các bị cáo là làm ruộng, làm nương rẫy và lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị; nếu có áp dụng thì các bị cáo cũng không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.

[5]. Về vật chứng vụ án: Theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đối với 83,66 gam Heroine còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel đã thu giữ của bị cáo Vàng A S, theo lời khai của bị cáo đã sử dụng vào việc liên lạc, trao đổi mua bán trái phép chất ma túy, nhưng trong quá trình điều tra không chứng minh được bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14. Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho các bị cáo; vì các bị cáo Vàng A S, Lầu A D là dân tộc thiểu số thuộc hộ cận nghèo, hiện đang sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn.

[8]. Về các vấn đề liên quan khác: Theo lời khai của bị cáo Lầu A D người bán Heroine cho D tên là Chiến nhà ở bản Xuân Tre, xã Búng Lao, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên. Qua điều tra xác minh không có đối tượng nào tên là Chiến trên địa bàn, nên không điều tra làm rõ được.

Đối với đối tượng tên Toán và hai đối tượng đi cùng với Toán đến mua Heroine của S và D, do S và D không biết rõ nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ điều tra làm rõ được. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu SYM loại xe ANGEL màu đen, xám, BKS 27Z-015-56 tạm giữ của Lầu A D. Qua quá trình điều tra chủ xe là của S A Chư trú tại: Bản Phiêng Cải, xã Phình Sáng, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Theo lời khai của bị cáo D thì Lầu Thị Nhung là con gái của bị cáo đã mua chiếc xe máy này của Chư. Hiện tại S A Chư, Lầu Thị Nhung đều không có mặt tại địa phương nên cơ quan điều tra để lại tại kho vật chứng Công an tỉnh Điện Biên để điều tra làm rõ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự;

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vàng A S, Lầu A D đều phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lầu A D 17 (mười bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giữ (ngày 09/6/2021).

2.2. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Vàng A S 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giữ (ngày 09/6/2021).

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

* Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong có 83,66 gam Heroine.

* Trả lại cho bị cáo Vàng A S: 01 (một) điện thoại di động hiệu Masstel.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Điện Biên và Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 08/9/2021).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Vàng A S, Lầu A D.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/9/2021)./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 101/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:101/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;