TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHI SƠN - TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 101/2021-HSST NGÀY 18/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18/08/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn - Thanh Hoá, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 106/2021/ TLST- HS ngày 05/8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2021/ QĐXXST- HS ngày 06/8/2021 đối với bị cáo: Phạm Văn Đ - sinh năm 1987, tại phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa.
Nơi ở hiện nay: Tổ dân phố T, phường H, thị xã N tỉnh Thanh Hóa.
Nghề nghiêp.: Lao động tự do; trình độ học vấn: 1/12; giới tính: nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn B (đã chết), con bà: Lê Thị C.
Tiền án:
- Ngày 20/11/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã nghi Sơn) xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 13/5/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã nghi Sơn) xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 27/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Nông Cống xử phạt 16 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 26/12/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã nghi Sơn) xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm.
Tiền sự: không;
Nhân thân: Năm 2003, 2006, 2008, 2010, 2011 bị đưa đi các trường giáo dưỡng, giáo dục và giáo dục tại phường xã;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/6/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
*Người bị hại: Anh Lê Anh D sinh năm 1976 Trú tại: Tổ dân phố 1, phường Hải An, thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Người làm chứng: Chị Lê Thị D - sinh năm 1980 Trú tại: Tổ dân phố 1, phường hải An, thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 00h30 phút ngày 05/6/2021, Phạm Văn Đ đi bộ từ nhà ở tổ dân phố Thanh Bình, phường H, thị xã N về hướng phường Hải An, thị xã Nghi Sơn để tìm sơ hở của các hộ gia đình để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Đến khoảng 1 giờ cùng ngày, Đ đi qua nhà anh Lê Anh Dũng, ở tổ dân phố 1, phường H thị xã N, thấy nhà đã tắt điện nên Đ trèo qua bờ tường phía trước vào trong nhà; Đ đi lại phía sau nhà thì thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sỉíu, màu sơn đỏ, biển kiểm soát 36L8-3666, trên xe có cắm chìa khóa (bên trong cốp xe mô tô có 1 đăng ký xe mô tô, tên chủ xe là Lê Thị D, thôn 1, xã Hải An, thị xã Nghi Sơn). Đ đi ra phía trước cổng chínhđể kiểm tra thì thấy cổng chính không khóa, nên Đ mở cửa và quay lại phía sau dắt chiếc xe mô tô trên đi qua cổng ra ngoài đường; Đạt dắt xe mô tô đi thêm một đoạn thì lên xe nổ máy đi về nhà để cất dấu. Đến khoảng 8 giờ ngày 09/6/2021 nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên Đ đã đến Công an phường Hải Ninh, thị xã nghi Sơn đầu thú và giao nộp chiếc xe mô tô đã trộm cắp; 01 đăng ký xe mô tô mang tên Lê Thị D và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 69/KLĐGTS, ngày 09/6/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự UBND thị xã Nghi Sơn kết luận: “)1 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Siriu, màu đỏ, biển kiểm soát: 36L8 – 3666, số khung: S3106Y05015, số máy: 3S31054015, dung tích 110, xe đã qua sử dụng;
01 đăng ký xe mo tô mang tên Lê Thị Dịu.
Qua điều tra xác địnhchiếc xe mô tô biển kiểm soát: 36L8 – 3666 là do anh Lê văn D nhờ chị Lê Thị D (là em gái anh D) mua hộ vadf đứng tên. Vì vậy ngày 23/6/2021 Cơ quan CSĐT Công an thị xã Nghi Sơn, đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Lê Văn Dũng là phù hợp.
Anh Lê Văn D đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về phần dân sự.
Tại Bản Cáo trạng số 110 /CT-VKSNS-HS ngày 03/08/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn truy tố bị cáo Phạm Văn Đạt về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 2 Điều 173 BLHS.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
* Áp dụng: Điểm g Khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Đề nghị xử phạt Phạm Văn Đ từ 30 tháng đến 36 tháng tù.
Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
Tại phiên tòa bị cáo nhận tội và không có ý kiến tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo nhận thấy việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an thị xã Nghi Sơn, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn, Điều tra viên, Kiểm sát viên VKSND thị xã Nghi Sơn trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận:
Khoảng 1h00’ ngày 05/6/2021 Phạm Văn Đ đã có hành vi trộm cắp 1 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu sơn đỏ, biển kiểm soát 36L8-3666 của gia đình anh Lê Anh Dũng, ở Tổ dân phố 1, Phường Hải An, Thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Giá trị tài sản trộm cắp được định giá là 3.500.000đ.
Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, kết quả định giá tài sản và tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn là hoàn toàn có cơ sở. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Phạm Văn Đ đã có hành vi trộm cắp 1 xe mô tô trị giá 3.500.000đ. Bản thân bị cáo đã có 4 tiền án đều về tội trộm cắp tài sản, đã tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản, do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội:” Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng:” Tái phạm nguy hiểm”. Tội danh và hình phạt áp dụng được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[3]Tính chất vụ án là nghiêm trọng:
Xuất phát từ động cơ mục đích muốn có tiền tiêu xài cá nhân, Phạm Văn Đ đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại, lén lút đột nhập vào gia đình bị hại trộm cắp 1 xe máy trị giá 3.500.000đ. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm thể hiện sự coi thường pháp luật, đã xâm phạm đến tài sản của người khác đồng thời gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó cần phải xử lý nghiêm tương xứng với tính chất mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo.
[4]. Xét Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
* Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo đã 4 lần bị xét xử đều về tội:” Trộm cắp tài sản”. Lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm, là tình tiết định khung tăng nặng do đó bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng.
* Về tình tiết giảm nhẹ:
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan điều tra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội, đồng thời tự nguyện giao nộp lại tài sản trộm cắp để trả lại cho người bị hại. Do đó bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS, giảm cho bị cáo 1 phần hình phạt thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử, xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử về tội:” Trộm cắp tài sản”, đã được giáo dục cải tạo nhiều lần nhưng vẫn không sửa đổi, sau khi chấp hành án phạt tù lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có thể giáo dục cải tạo trở thành người lương thiện (Thời gian bị cáo bị tạm giữ tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt).
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện giao nộp lại lại tài sản để trả lại cho người bị hại, người bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về tang vật: Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu sơn đỏ, biển kiểm soát 36L8-3666, của gia đình anh Lê Anh Dũng do Phạm Văn Đ giao nộp. Cơ quan điều tra đã trả lại cho gia đình anh Lê Anh Dũng, anh Dũng không yêu cầu gì về phần dân sự.
[7]. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Phạm Văn Đạt phạm tội " Trộm cắp tài sản".
* Căn cứ: Điểm g Khoản 2 Điều 173; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS
* Xử phạt: Phạm Văn Đ 36 (ba sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt từ tính từ ngày 09/6/2021.
* Về trách nhiệm dân sự: Công nhận người bị hại đã nhận lại tài sản do bị cáo chiếm đoạt.
* Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH: Buộc bị cáo Phạm Văn Đ phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm, Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết.
Bản án 101/2021-HSST ngày 18/08/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 101/2021-HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Nghi Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về