TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 101/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ LY HÔN GIỮA BÀ Ă VÀ ÔNG K
Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 83/2021/TLST- HNGĐ ngày 05/7/2021 về việc “Ly hôn, nuôi con chung sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ă, sinh năm 1977; Địa chỉ: Tổ 16, TT X, huyện X, tỉnh Nam Định.
* Bị đơn: Ông Bùi Đức K, sinh năm 1958;
Địa chỉ: Tổ 5, TT X, huyện X, tỉnh Nam Định.
(Bà Ă, ông K có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình tố tụng, bà Nguyễn Thị Ă trình bày: Bà và ông Bùi Đức K tự nguyện tìm hiểu và đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn X ngày 08/10/2013. Trong cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính tình, lối sống không hòa hợp, ông Ki gia trưởng không quan tâm đến vợ con; bà cảm thấy chán nản nên đã đưa con về tổ 16, thị trấn X ở từ tháng 5/2018 đến nay. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị được ly hôn ông K.
Về con chung: Bà và ông K có 02 con chung là Bùi Đức H, sinh ngày 10/7/2014 và Bùi Quang T, sinh ngày 16/11/2018. Các con đang ở với bà, Tại phiên tòa bà đề nghị để ông kiểu nuôi cháu H, bà nuôi chấu T.
Về tài sản chung, nghĩa vụ tài sản: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn, ông Bùi Đức K có lời khai trình bày: Ông nhất trí nội dung mâu thuẫn vợ chồng do bà Ă đưa ra. Nhưng bản thân không nhất trí ly hôn vì vợ chồng không có gì mâu thuẫn lớn. tại phiên tòa ông đồng ý ly hôn. Về con chung ông cũng trình bày có 2 con chung như bà Ă khai. Ông đề nghị nuôi cháu H còn nhường bà Ă nuôi cháu T. Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết phần tài sản công nợ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, các đương sự tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Về nội dung, căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử: Xử ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Ă và ông Bùi Đức K. Giao con chung là Bùi Quang T, sinh ngày 16/11/2018 cho bà Ă trực tiếp nuôi dưỡng. Giao Bùi Đức H, sinh ngày 10/7/2014 cho ông K trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Bà Ă có trách nhiệm giao cháu Bùi Đức H cho ông K trực tiếp chăm sóc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ă và ông Bùi Đức K có quan hệ hôn nhân hợp pháp, đăng ký kết hôn ngày 08/10/2013 tại UBND thị trấn X. Vợ chồng mâu thuẫn do tính cách, lối sống không hòa hợp, bất đồng quan điểm, bà Ă đã về nhà mẹ đẻ sống ly thân từ 5/2018 đến nay. Bà Ă xin ly hôn, ông K muốn đoàn tụ, Tòa án đã tạo điều kiện hòa giải, dành thời gian cho ông K bàn bạc với bà Ă nhưng không được, bà Ă vẫn kiên quyết ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Ă và ông K đã kéo dài, ly thân đã 3 năm nay nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Ă đối với ông K là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[2] Về việc nuôi con chung: Ông bà có 02 con chung là Bùi Đức H, sinh ngày 10/7/2014 và Bùi Quang T, sinh ngày 16/11/2018 đang ở với bà Ă, xét thấy cháu H có nguyện vọng ở với mẹ, cháu T sinh ra tại nhà ngoại khi hai ông bà đã ly thân. Để đảm bảo quyền nuôi con cho cả hai bên nên giao cháu H cho ông K trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu T cho bà Ă trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau và có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Bà Ă có trách nhiệm bàn giao cháu H cho ông K trực tiếp chăm sóc.
[3] Về tài sản, nghĩa vụ về tài sản: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
[4] Về án phí: Bà Ă phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Xử cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Ă và ông Bùi Đức K.
2. Về con chung: Giao con chung là Bùi Đức H, sinh ngày 10/7/2014 cho ông K trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, Giao con chung là Bùi Quang T, sinh ngày 16/11/2018 cho bà Ă trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau và có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Bà Ă có trách nhiệm bàn giao cháu H cho ông K trực tiếp chăm sóc.
3. Về án phí: Bà Ă phải nộp án phí ly hôn là 300.000đ, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002086 ngày 05/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; bà Ă đã nộp đủ.
4. Bà Ă, ông K được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 101/2021/HNGĐ-ST ngày 31/08/2021 về ly hôn giữa bà Ă và ông K
Số hiệu: | 101/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về