Bản án 101/2020/HS-ST ngày 04/09/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 101/2020/HS-ST NGÀY 04/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 04 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 108/2020/TLST- HS ngày 30/7/ 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2020/QĐXXST-HS ngày 24/8/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Văn L, sinh năm 1974 (Tên gọi khác: Không); Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: thôn N, xã N, huyện V, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Ngô Văn S, sinh năm 1942 và bà Ngô Thị L, sinh năm 1946; có vợ Thân Thị H, sinh năm 1984 và có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2009 (Tại phiên tòa bị cáo khai bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2020); Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ ba; Tiền án:

Không; Tiền sự: Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 07/QĐ-XPHC ngày 27/6/2019, Công an xã T, thành phố B xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc. Đã nộp phạt xong; Nhân thân: Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 61/QĐ ngày 26/4/2005 Công an huyện V xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc; Tại bản án số 31/2007/HSST ngày 04/6/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm 06 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Tổ chức người khác trốn đi nước ngoài”. Đã chấp hành xong bản án ngày 05/3/2009. Bị cáo bị bắt quả tang, bị khởi tố áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

1. Nguyễn Trọng Tr – sinh năm 1971 (vắng mặt)

2. Nguyễn Văn Th – sinh năm 1955 (vắng mặt)

3. Nguyễn Văn T – sinh năm 1978 (vắng mặt)

4. Nguyễn Văn Đ – sinh năm 1978 (vắng mặt)

5. Nguyễn Văn H – sinh năm 1984 (vắng mặt)

6. Đoàn Xuân Th1 – sinh năm 1978 (vắng mặt)

Đều địa chỉ: Thôn M, xã N, huyện V, tỉnh Bắc Giang

7. Hà Thị O – sinh năm 1975 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện H, tỉnh Bắc Giang

8. Nguyễn Thị G – sinh năm 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang

- Người chứng kiến

1. Nguyễn Thị Th2 – sinh năm 1972 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Th, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang

2. Nguyễn Văn C - sinh năm 1967 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn M, xã N, huyện V, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Văn L- sinh năm 1974, trú tại: thôn N, xã N, huyện V, tỉnh Bắc Giang là người đã có tiền sự về hành vi đánh bạc (Tại Quyết định số 07/QĐ-XPHC ngày 27/6/2019 của Công an xã T, thành phố B xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc). Trong ngày 25/3/2020 và ngày 14/4/2020, Ngô Văn L đã 02 lần thực hiện hành vi đánh bạc tại nhà ở của Nguyễn Trọng Tr- sinh năm 1971 ở thôn M, xã N, huyện V, tỉnh Bắc Giang, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khong 11 giờ ngày 25/3/2020, Ngô Văn L đến nhà Nguyễn Trọng Tr để sửa ghế cho Tr. Sau khi sửa ghế xong, L ngồi chơi uống nước cùng Tr tại nhà Tr đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì lần lượt có Nguyễn Văn T- sinh năm 1978, Nguyễn Văn Th- sinh năm 1955 (ở cùng thôn) đến và ngồi chơi uống nước cùng L. Ngồi chơi đến khoảng 12 giờ 15 phút, Tr, L, T, Th rủ nhau đánh bạc ăn tiền bằng hình thức đánh chắn. Tr lấy 01 chiếc chiếu cói trải ra giữa nền nhà và lấy 01 bộ bài chắn gồm 100 quân bài cùng 01 chiếc đĩa sứ ra để ở trên chiếu rồi cùng L, T, Th ngồi đánh bạc. Về hình thức đánh bạc được quy định cụ thể như sau: L và các đối tượng sử dụng bộ bài chắn gồm 100 quân bài có các hàng quân là: nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu; mỗi hàng quân gồm có 3 loại là vạn, văn, sách; mỗi loại gồm có 4 quân bài (ví dụ: nhị vạn, nhị văn, nhị sách...) và 04 quân chi. Các quân bài chi, cửu vạn, cửu sách, bát vạn, bát sách là màu đỏ, còn lại các quân bài khác là màu đen. Trước mỗi ván bài, mỗi người đánh bạc bỏ ra số tiền quy ước (50.000 đồng hoặc 100.000 đồng) để ở giữa chiếu bạc gọi là “tiền góp gà”. Sau đó, một người đánh bạc sẽ chia bộ bài chắn thành 5 phần gồm 4 phần 19 quân bài và một phần 23 quân bài. Khi chia bài xong, một người chơi sẽ rút một quân bài trong phần bài 23 quân bài rồi để vào một trong bốn phần 19 quân bà i, sau đó ngửa quân bài này lên để xác định người có “cái”. Người có “cái” sẽ nhận bài trước, sau đó lần lượt đến những người đánh bạc còn lại sẽ lấy mỗi người một phần bài 19 quân. Còn phần 22 quân bài sẽ để ở trên một chiếc đĩa ở giữa chiếu bạc gọi là “n ọc”. Sau khi những người đánh bạc cầm bài và xếp bài thì người có cái sẽ là người “đánh” đầu tiên. Người có “cái” rút một quân bài trong bài của mình đánh cho người ngồi kế bên tay phải. Nếu người kế bên “ăn” được quân bài đó thì sẽ rút một quân bài trên bài của mình đánh cho người tiếp theo. Nếu người kế bên không “ăn” được thì sẽ rút một quân bài ở “nọc” xếp vào bài của mình, sau đó rút một quân bài tùy ý trên bài của mình “đánh” cho người tiếp theo. Cứ “đánh” lần lượt như trên đến khi có người “ù” hoặc hết quân ở “nọc” mà không có ai “ù” thì ván chơi kết thúc. Người “ù” sẽ thắng và được số tiền tương ứng với “cước ù” còn nếu rút hết quân ở “nọc” thì những người chơi không thắng, không thua.

- Các “cước ù” và số tiền thắng đều được các đối tượng thống nhất lấy từ tiền góp già, cụ thể như sau: Ù xuông: là trên bài của người chơi có ít nhất 6 “chắn” còn lại là các “cạ” thì người chơi sẽ được số tiền là 30.000 đồng. Ù tôm: là bài ù và trên bài có các quân bài: thất văn, tam vạn, tam sách thì người ù tôm sẽ đượ c số tiền là 40.000 đồng. Ù lèo: là bài ù và trên bài có các quân bài: chắn chi, cửu vạn và bát sách thì người ù lèo sẽ được số tiền là 50.000 đồng. Ù tám đỏ: là bài ù và trên bài có 8 quân màu đỏ thì người ù sẽ được số tiền là: 110.000 đồng. Ù bạch định: là bài ù và toàn bộ các quân bài trên bài là màu đen thì người ù sẽ được số tiền là: 110.000 đồng.

- Chắn là 2 quân bài giống nhau (ví dụ: chắn nhị vạn ...); “cạ” là hai quân bài cùng hàng nhưng khác loại (ví dụ: cạ nhị vạn hoặc cạ nhị văn ...). Chỉ khi cá c quân bài vào chắn hoặc vào cạ thì người đánh bạc mới được ăn.

Khi đánh bạc, Ngô Văn L sử dụng số tiền 1.400.000 đồng, Nguyễn Trọng Tr sử dụng số tiền khoảng 210.000 đồng, Nguyễn Văn Th sử dụng số tiền khoảng 230.000 đồng và Nguyễn Văn T sử dụng số tiền khoảng 500.000 đồng vào việc đánh bạc. L cùng với Tr, Th và T đánh bạc từ khoảng 12 giờ 20 phút đến khoảng 13 giờ ngày 25/3/2020 thì bị Công an xã N, huyện V đến kiểm tra hành chính, phát hiện, lập biên bản vi phạm. Vật chứng thu giữ tại chiếu bạc gồm: Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.340.000 đồng (hai triệu ba trăm bốn mươi nghìn đồng); 01 bộ bài chắn gồm 100 quân; 01 đĩa sứ trắng có hoa văn và 01 chiếc chiếu cói.

Vụ thứ hai: Hồi 15 giờ ngày 14/4/2020 tại nhà Nguyễn Trọng Tr sinh năm 1971, trú tại: thôn M, xã N, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Tổ công tác Công an huyện V phát hiện, bắt quả tang 03 đối tượng đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm và 04 đối tượng đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh chắn. Tại bàn bạc đánh phỏm gồm có: Ngô Văn L sinh 1974, trú tại: thôn N, xã N, huyện V; Hà Thị O, sinh năm 1980, trú tại thôn B, xã Đ, huyện H, tỉnh Bắc Giang và Nguyễn Thị G, sinh năm 1980, trú tại thôn Đ, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Tại bàn bạc đánh chắn gồm: Nguyễn Trọng Tr; Nguyễn Văn Đ sinh năm 1978; Nguyễn Văn H sinh năm 1984 và Đoàn Xuân Th1 sinh năm 1978, đều trú tại: thôn M, xã N, huyện Việt Yên.

Vt chứng thu giữ gồm:

- Thu tại bàn bạc đánh phỏng gồm: 01 Bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân; 01 chiếc chiếu tre và số tiền 510.000 đồng. Quá trình bắt quả tang Ngô Văn L giao nộp: 01 chiếc ví da màu nâu có chữ TOMA, bên trong có 470.0 00 đồng; 01 điện thoại nhãn hiệu NOKIA X1 màu đen, số seri 358292045006609. Hà Thị O giao nộp: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu hồng, có số Imel 1: 868993038384019, có số Imel 2: 868993038384001.

- Thu tại chiếu bạc đánh bài chắn: 02 bộ bài chắn, một bộ có một mặt màu trắng, một bộ có một mặt màu xanh, mỗi bộ có 100 lá bài; 02 chiếc đĩa sứ màu trắng; 01 chiếc thảm màu đỏ và số tiền 1.160.000 đồng. Quá trình bắt quả tang Nguyễn Trọng Tr giao nộp: 01 điện thoại di động nhãn hiệu LG số Imel 355469080640152; 01 chiếc điện thoại di động màu đen vỏ nhựa số Imel:

354530090003318; 01 ví da màu đen bên trong có 01 CMT nhân dân mang tên Nguyễn Trọng Tr và số tiền 2.250.000 đồng. Nguyễn Văn Đ giao nộp: 01 điện thoại di động Samsung M10 màu đen, ốp màu đen số Imel 1: 355546101112681/01; 01 ví da màu nâu vàng bên trong có 01 CMT mang tên Nguyễn Văn Đ và số tiền 600.000 đồng. Nguyễn Văn H giao nộp số tiền 200.000 đồng. Đoàn Xuân Th1 giao nộp: 01 điện thoại di động Iphone 6S màu bạc, số Imel: 353263078664668 và số tiền 1.350.000 đồng.

Quá trình điều tra bị can Ngô Văn L và các đối tượng khai nhận hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm ngày 14/4/2020 như sau: Kh oảng 12 giờ ngày 14/4/2020, L đi đến nhà Tr ăn cơm và uống rượu cùng một số người; sau đó L lên giường nhà Tr ngủ. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì L tỉnh dậy thấy có Nguyễn Trọng Tr, Đoàn Xuân Th1, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn Đ đang ngồi đánh bạc bằng hình thức đánh chắn ăn tiền; L đi xuống gian bếp nhà Tr để rửa mặt. Khi xuống bếp, L thấy có Hà Thị O và Nguyễn Thị G đang đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm. L đi vào nhà tắm nhà Tr rửa mặt. Sau đó, L quay ra ngoài bảo O, Gấm cho đánh bạc cùng và được O, G đồng ý. Các đối tượng sử dụng 01 bộ bài tú lơ khơ có 52 quân từ Át đến K, khi chơi mỗi người được chia 09 quân bài tú lơ khơ, người chia bài được chia 10 quân. Người chia bài là người đánh đầu tiên, đánh theo chiều kim đồng hồ. Khi hết lượt đánh, người chơi hạ bài xuống, người nào có 03 quân bài giống nhau (ví dụ: Át, Át, Át hoặc 2,2,2 ...) hoặc 03 quân bài có thứ tự liên tiếp nhau cùng màu, cùng chất (Ví dụ 2,3,4 chất Rô ....) thì được coi là một “phỏm”. Khi hạ bài, người nào có 3 “phỏm” trong một ván bài thì được gọi là “ù”. Trong một ván bài, nếu có người “ù” thì kết thúc ván bài và tính là người thắng, đồng thời người này được những người chơi còn lại trả cho số tiền là 30.000 đồng. Trong trường hợp, nếu một ván bài không có ai “ù” thì người chơi hạ bài của mình xuống và tự tính điểm của mình. Cách tính điểm: cộng tổng điểm các quân bài còn lại không phải “phỏm”. Quân J tính bằng 11 điểm, quân Q tính bằng 12 điểm, quân K tính bằng 13 điểm. Người nào thấp điểm nhất thì thắng và được lấy tiền của những người còn lại. Người ít điểm thứ hai phải trả cho người thắng số tiền là 10.000 đồng và người cao điểm nhất trong ván bài phải trả cho người về nhất 20.000 đồng. Nếu người nào không có “phỏm” thì phải trả cho người thắng số tiền 20.000 đồng, nếu người nào “Ù” thì thu của những người còn l ại 30.000 đồng.

Khi đánh bạc, Ngô Văn L sử dụng số tiền 470.000 đồng, Hà Thị O sử dụng số tiền 10.000 đồng, Nguyễn Thị G sử dụng số tiền 30.000 đồng vào việc đánh bạc. L cùng với G, O đang đánh bạc đến hồi 15 giờ phút cùng ngày 14/4/2020 thì bị Tổ công tác Công an huyện V phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng liên quan.

Quá trình điều tra các đối tượng khai nhận hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh chắn ngày 14/4/2020 như sau: Khoảng 13 giờ ngày 14/4/2020, Tr đang ở nhà thì lần lượt có Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn H, Đoàn Xuân Th1 đến chơi và ngồi uống nước cùng. Trong lúc ngồi uống nước thì Tr, Đ, H, Th1 cùng rủ nhau đánh bạc bằng hình thức đánh chắn và được mọi người đồng ý. Tr chải tấm thảm màu đỏ xuống dưới nền nhà và lấy 02 bộ bài chắn mỗi bộ gồm 100 quân (01 bộ màu xanh, 01 bộ màu trắng); 02 chiếc đĩa sứ màu trắng để xuống thảm để mọi người sử dụng đánh bạc. Trong lúc Tr, Đ, H, Th1 đang đánh chắn thì thì có O, G, L đến rồi cả ba người rủ nhau xuống bếp nhà Tr đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm. Khi tham gia đánh bạc Nguyên Trọng Tr sử dụng số tiền 200.000 đồng; Nguyễn Văn Đ sử dụng số tiền 460.000 đồng; Nguyễn Văn H sử dụng số tiền 300.000 đồng; Đoàn Xuân Th1 sử dụng số tiền 200.000 đồng để đánh bạc. Tr, Đ, H, Th đánh bạc đến hồi 15 giờ cùng ngày 14/4/2020 thì bị Tổ công tác Công an huyện Việt Yên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng liên quan.

Tại bản Cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 22/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đã truy tố bị cáo Ngô Văn L về tội “ Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội không oan. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt đã được Hội đồng xét xử công bố lời khai, bị cáo không có ý kiến gì về những lời khai đó.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô Văn L phạm tội “ Đánh bạc”.

Áp dụng: Khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Ngô Văn Long từ 08 tháng đến 10 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Phạt tiền: từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng để sung quỹ nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khon 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu sung công quỹ nhà nước: số tiền 6.260.000 đồng ( Sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng chẵn) Tịch thu tiêu huỷ: 03 bộ bài chắn, mỗi bộ gồm 100 quân (trong đó 01 bộ bài có một mặt màu đỏ, 01 bộ bài có một mặt màu trắng, 01 bộ bài có một mặt màu xanh);

01 Đĩa sứ trắng có hoa văn; 02 Đĩa sứ màu trắng; 02 chiếc chiếu cói; 01 chiếc thảm màu đỏ; 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Ngô Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo có ý kiến tranh luận về mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng với bị cáo là quá cao so với hành vi phạm tội của bị cáo. Đại diệnViện Kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đã đối đáp lại với ý kiến tranh luận của bị cáo và giữ nguyên quan điểm đề xuất áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Việt Yên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu có trong hồ sơ. Điều đó đủ cơ sở để kết luận: Ngô Văn L là người đã có tiền sự về hành vi đánh bạc; trong ngày 25/3/2020 và ngày 14/4/2020, tại nhà ở của Nguyễn Trọng Tr- sinh năm 1971, trú tại: thôn M, xã N, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Ngô Văn L đã có 02 lần thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh chắn và đánh phỏm, cụ thể:

- Ngày 25/3/2020, Ngô Văn L có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh chắn cùng với các đối tượng Nguyễn Trọng Tr, Nguyễn Văn Th và Nguyễn Văn T thì bị Công an xã N, huyện V kiểm tra hành chính, phát hiện và thu giữ vật chứng liên quan, quá trình điều tra xác định tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 2.340.000 đồng.

- Ngày 14/4/2020, Ngô Văn L có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm cùng với các đối tượng Hà Thị O, Nguyễn Thị G thì bị Tổ công tác Công an huyện Việt Yên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng liên quan, quá trình điều tra xác định tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 510.000 đồng.

[3] Do đó Cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 22/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố bị cáo Ngô Văn L về tội “ Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tộị, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, việc bị cáo đánh bạc dưới hình thức đánh chắn và đánh phỏm làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, đồng thời là nguyên nhân gây phát sinh ra nhiều tệ nạn xã hội khác nếu không được ngăn chặn kịp thời. Vì vậy cần xử lý bằng pháp luật hình sự đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[5] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, tỉnh tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử thấy như sau:

Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị Tòa án đưa ra xét xử hình sự và bị xử phạt vi phạm hành chính.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Ngoài ra bị cáo có thời gian phục vụ trong Quân đội là 02 năm 05 tháng từ tháng 02/1994 đến tháng 7/1996, bị cáo có bố đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo.

Qua đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị toà án đưa ra xét xử về tội “tổ chức người khác trốn đi nước ngoài”, bị Công an huyện V và Công an xã T, thành phố B xử phạt hành chính về hành vi “ Đánh bạc”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện trở thành công dân tốt mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Xét về mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị, Hội đồng xét xử thấy là cao so với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, cần áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn so với mức đề nghị của Kiểm sát viên cũng đủ để răn đe và giáo dục bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, phạm tội vì động cơ vụ lợi nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ngô Văn Long là có căn cứ.

[6] Về xử lý vật chứng: đối với số tiền 6.260.000 đồng (gồm tiền thu được ngày 25/3/2020 là 2.340.000 đồng, tiền thu được ngày 14/4/2020 là 1.160.000 đồng + 510.000 đồng và tiền thu của Nguyễn Trọng Tr dùng vào việc đánh bạc là 2.250.000 đồng) là tiền bị cáo và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan dùng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung vào công quỹ nhà nước; đối với 03 bộ bài chắn, mỗi bộ gồm 100 quân (trong đó 01 bộ bài có một mặt màu đỏ, 01 bộ bài có một mặt màu trắng, 01 bộ bài có một mặt màu xanh);

01 Đĩa sứ trắng có hoa văn; 02 Đĩa sứ màu trắng; 02 chiếc chiếu cói; 01 chiếc thảm màu đỏ; 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân là công cụ phương tiện phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với các điện thoại và tiền thu giữ trên người của Ngô Văn L, Nguyễn Trọng Tr, Đoàn Xuân Th1, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn H, Hà Thị O: quá trình điều tra xác định không dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại Nguyễn Trọng Tr:

01 điện thoại di động nhãn hiệu LG số Imel: 355469080640152; 01 chiếc điện thoại di động màu đen vỏ nhựa số Imel: 354530090003318; 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Trọng Tr. Trả lại Ngô Văn L 01 ví da màu nâu có chữ TOMA bên trong có 470.000 đồng; 01 điện thoại di động Nokia X1 màu đen, số seri: 358292045006609. Trả lại Đoàn Xuân Th1 01 điện thoại di động Iphone 6S màu bạc, ốp màu đen, số Imel: 353263078664668 và số tiền 1.350.000 đồng. Trả lại Nguyễn Văn Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung M10 màu đen, ốp màu đen, số Imel: 355546101112681/01; 01 ví da màu nâu vàng, bên trong có 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Văn Đ và số tiền 600.000 đồng. Trả lại Nguyễn Văn H số tiền 200.000 đồng. Trả lại Hà Thị O 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu hồng số Imel 1: 868993038384019, số Imel 2: 868993038384001.

[7] Đối với Nguyễn Trọng Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th, Hà Thị O, Nguyễn Thị G, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn H, Đoàn Xuân Th có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh chắn, bằng hình thức đánh phỏm ngày 25/3/2020 và ngày 14/4/2020. Tuy nhiên số tiền những người này sử dụng để đánh bạc mỗi lần đều không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra xác định các đồi tượng trên đều chưa có tiền án, tiền sự về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc nên hành vi của Nguyễn Trọng Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th, Hà Thị O, Nguyễn Thị G, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn H, Đoàn Xuân Th1 không cấu thành tội phạm. Ngày 16/6/2020, Công an huyện V đã ra quyết định xử phạt hành chính 2.000.000 đồng đối với Nguyễn Trọng Tr; xử phạt hành chính 1.500.000 đồng đối với Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th, Hà Thị O, Nguyễn Thị G, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn H, Đoàn Xuân Th1 về hành vi đánh bạc là có căn cứ.

[8] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Ngô Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật là có căn cứ.

Ngoài ra, cần áp dụng Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự để tuyên quyền kháng cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Ngô Văn L 07 (bẩy) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Phạt tiền: 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng chẵn) để sung quỹ nhà nước.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự - Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền số tiền 6.260.000 đồng ( Sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng chẵn) Tịch thu tiêu huỷ: 03 bộ bài chắn, mỗi bộ gồm 100 quân (trong đó 01 bộ bài có một mặt màu đỏ, 01 bộ bài có một mặt màu trắng, 01 bộ bài có một mặt màu xanh);

01 Đĩa sứ trắng có hoa văn; 02 Đĩa sứ màu trắng; 02 chiếc chiếu cói; 01 chiếc thảm màu đỏ; 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/NQ – UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Ngô Văn L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 332, 333 BLTTHS 2015 Báo cho bị cáo có mặt biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 101/2020/HS-ST ngày 04/09/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:101/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;