TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 101/2018/HS-ST NGÀY 28/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 28/3/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 104/2018/TLST-HS ngày 27/02/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2018/QĐXXST-HS ngày15/3/2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn L; Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1986, tại Điện Biên.
Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: Bản Púng B, xã Pa Th huyện Điện B, tỉnh Điện Biên.Nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: C; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn H và con bà Lò Thị Ph; Bị cáo sinh sống như vợ chồng với Lò Thị P có 01 người con sinh năm 2003; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: sử dụng ma túy từ năm 2004; bị tạm giữ tạm giam từ ngày07/12/2017 đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 07/12/2017, Lò Văn L đi bộ từ nhà ở bản Púng B, xã Pa Th, huyện Đ B đến khu vực Cảnh Kh thuộc bản P Th, xã P Th để tìm mua heroine về để sử dụng. Tại đây bị cáo L đã mua được 01 gói nilon màu trắng được hơ lửahàn kín bên trong có 04 gói heroine, mỗi gói đều được gói bằng nilon màu trắng hơ lửa hàn kín của một người phụ nữ dân tộc Lào khoảng 30 tuổi mà bị cáo không biết tên địa chỉ với giá 200.000 đồng. Mua được heroine, L cất vào trong túi quần bên phải đang mặc rồi đi đến bản P Th, xã P Th để làm thuê. Hồi 19 giờ 30 phút cùng ngày khi L đi đến khu vực bãi cát thuộc bản P X L, xã P Th, huyện Điện Biên thì bị tổ công tác đồn Biên Phòng Pa Thơm phối hợp với Công an huyện Điện Biên và công an xã Pa Thơm phát hiện bắt quả tang thu giữ trong túi quần Lò Văn L đang mặc 01 gói nilon màu trắng hơ lửa hàn kín, bên tron g có 04 gói heroine, mỗi gói đều được gói ngoài bằng nilon màu trắng và hơ lửa hàn kín.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng hồi 14 giờ 20 phút ngày 18/12/2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã xác định: Số vật chứng thu của Lò Văn L có khối lượng là 0,51 gam nghi heroine, trích mẫu gửi giám định 0,08 gam.
Tại Bản kết luận giám định số: 162/GĐ-PC54 ngày 18/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Số mẫu vật gửi giám định thu giữ của Lò Văn L là heroine. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.
Tại bản Cáo trạng số: 51/CT-VKS-HS ngày 27/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn L về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015;
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 BLHS năm 2015
Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,51 gam heroine, trích mẫu gửi giám định0,08 gam không hoàn lại mẫu.
Tại phiên tòa bị cáo cũng thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2004, mục đích ma túy chỉ để sử dụng, không có mục đích gì khác. Bị cáo đề nghị xem xét miễn án phí HSST, do bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV; Khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015 về thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội; Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015; Điểm s Khoản 1 Điều 51BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 15 đến 18 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn quy định tại Quyết định số 900/QĐ -TTg ngày 20/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư của chương trình 135 giai đoạn 2017 - 2020, đề nghị HĐXX miễn án phí cho bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 07/12/2017 bị cáo Lò Văn L đã có hành vi tàng trữ 0,51 gam heroine với mục đích sử dụng cho bản thân bị cáo ngoài ra không có mục đích nào khác. Hành vi phạm tội của bị cáo Lò Văn L đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249/BLHS năm 2015
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể Nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng Nhân dân.
Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
[3] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã tàng trữ 0,51 gam heroine để sử dụng thuộc khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm năm 1999 và khối lượng chất ma túy thuộc điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV, Khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 về thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành. Hành vi phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của bị cáo Lò Văn L theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung theo Luật số 12/2017QH14 ngày 20/6/2017 đã có hiệu lực pháp luật từ 01/01/2018 quy định mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.
HĐXX xét thấy: Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung có mức hình phạt nhẹ hơn Khoản 1 Điều 194/BLHS năm 1999, do vậy cần áp dụng điều luật có mức hình phạt nhẹ hơn trên để áp dụng đối với bị cáo theo đúng quy định của pháp luật.
[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Lò Văn L sinh ra và lớn lên tại Điện Biên đi học hết lớp 01/12 thì bỏ học ở nhà cùng gia đình. Đến năm 2001 sống như vợ chồng với Lò Thị P từ năm 2001 đến năm 2006 và có 01 người con. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2004. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng nào nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều51 BLHS năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Về nguồn gốc số heroine thu giữ, bị cáo khai mua của một người phụ nữ dân tộc Lào khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ tại bản P Th, xã Pa Th, huyện Điện Biên nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ, HĐXX không xem xét.
[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo Khoản 5 Điều 249/BLHS năm 2015. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn lại là người nghiện nguồn thu nhập chính nhờ làm ruộng nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,51 gam heroine đã trích mẫu 0,08 gam gửi giám định không hoàn mẫu sau giám định
[7] Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn: Miễn án phí HSST cho bị cáo.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung theo luật số 12/2017/QH 14 ngày 20/6/2017; Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV, Khoản3 Điều 7 BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo: 16 (Mười sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 07/12/2017.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,51 gam heroine đã trích mẫu 0,08 gam gửi giám định không hoàn mẫu sau giám định
(Toàn bộ vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao cho Chi cục Thihành án dân sự huyện Điện Biên hồi 14 giờ 00 phút ngày 28 tháng 02 năm 2018)
3. Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí HSST cho bị cáo.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 28/3/2018.
Bản án 101/2018/HS-ST ngày 28/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 101/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về