Bản án 100/2020/HSST ngày 30/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 100/2020/HSST NGÀY 30/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 20 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Tuấn K - Sinh ngày: 21/10/1993.

Tên gọi khác: Cú mèo. Giới tính: Nam.

Nơi ĐKTT: Số 39/10 đường Phạm Ngũ Lão, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở: Như trên.

Nghề nghiệp: Làm thuê - Trình độ học vấn: 07/12.

Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Không - Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Trương Công L (1970) và bà Trần Thị Cẩm T (1971).

* Tiền sự: Chưa.

* Tiền án: 04 tiền án.

- Ngày 24/11/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Ngày 06/7/2011, chấp hành án xong, chưa được xóa án tích.

- Ngày 27/3/2011, bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Ngày 16/5/2012, chấp hành án xong, chưa được xóa án tích.

- Ngày 23/10/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Ngày 20/7/2014, chấp hành án xong, chưa được xóa án tích.

- Ngày 29/7/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản và Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 và khoản 1 Điếu 136 của Bộ luật hình sự. Ngày 08/4/2019, chấp hành án xong, chưa được xóa án tích.

- Ngày 12/11/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Hiện đang chấp hành tại Trại giam kênh 7 – Bộ Công an.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam: Ngày 06/8/2019 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Người bị hại:

- Trịnh Thị Bích L - Sinh năm: 1973. (Có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Phòng 4, nhà cho thuê số 109 đường Nguyễn Cư Trinh, khu phố Nam Cao, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Ông Nguyễn Thanh T - sinh năm: 1955. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Số 219/14 đường Võ Trường Toản, khu phố Quang Trung, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Ông Lâm Thanh B - sinh năm: 1977. (Có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Số 186/10A đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Nguyễn Thị Thúy V - sinh năm: 1980. (Có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Số 186/10A đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Đoàn Ngọc T2 - Sinh năm: 1981. (Có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Số 107C đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Ông Nguyễn Hoàng B - sinh năm: 1971. (Có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Số 109 đường Mạc Cửu, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Trần Thị Cẩm T - sinh năm: 1971. (Có mặt)

Địa chỉ: Số 39/10 đường Phạm Ngũ Lão, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trương Tuấn K là người đã có 04 tiền án về tội Trộm cắp tài sản và Cướp giật tài sản, chưa được xóa án tích và hiện chấp hành án về tội Cướp giật tài sản. Do không có nghề nghiệp, nghiện chất ma túy và cần tiền tiêu xài nên K nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản của người khác đem đi cầm lấy tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng.

Khoảng 12 giờ ngày 12/7/2019, K điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha, số loại Nouvo, màu trắng, biển số 51R3-0359 (xe của gia đình K) từ nhà đến hẻm 109 đường Nguyễn Cư Trinh, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá tìm trong khu nhà trọ xem có người nào có tài sản sơ hở để lấy trộm. Khi đến phòng trọ số 04, nhà cho thuê 109 đường Nguyễn Cư Trinh, K thấy cửa ra vào phòng trọ mở sẵn, K quan sát thấy ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1955, trú tại 219/14 đường Võ Trường Toản, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá đang nằm ngủ và bà Trịnh Thị Bích L, sinh năm 1973 trú tại phòng trọ số 04 đang giặt đồ ở phía sau phòng trọ nên K đã đi vào phòng trọ, lén lút lấy trộm 03 chiếc điện thoại, gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, đường viền màu trắng, ốp lưng màu vàng nhạt của ông T, 01 chiếc điện thoại Oppo và 01 chiếc điện thoại di động Samsung của bà L bỏ vào túi quần rồi đi ra ngoài phòng trọ. Sau đó, K đem chiếc điện thoại 01 chiếc điện thoại Oppo bán cho ông Nguyễn Hoàng B, sinh năm 1971 là chủ tiệm mua bán điện thoại di động ở số 109 đường Mạc Cửu, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, với giá 1.600.000 đồng, bán 01 chiếc điện thoại Samsung cho anh Đoàn Ngọc T2 là chủ tiệm mua bán điện thoại di động ở số 107C đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá với giá 2.700.000 đồng. Sau khi bán được 02 chiếc điện thoại, K tiếp tục chạy xe đến khu vực cầu Đốc Đinh thuộc địa bàn xã Vĩnh Trinh, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ gặp 01 người phụ nữ tên Xuân (chưa rõ tên thật, địa chỉ) và K bán chiếc điện thoại Oppo còn lại cho Xuân với giá 1.000.000 đồng và K mua của Xuân 01 bịch ma túy, loại heroin với giá 3.800.000 đồng, số tiền còn lại K đã tiêu xài cá nhân hết.

Khoảng 10 giờ ngày 25/7/2019, K đi xe đạp từ nhà đến hẻm 186 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá tìm tài sản của người khác có sơ hở để lấy trộm. Khi K đi đến trước cửa nhà của anh Lâm Thanh B và chị Nguyễn Thị Thúy V ở số 186/10A đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá. K nhìn vào bên trong nhà phát hiện không có ai ở trong nhà nên K đậu xe đạp ở bên ngoài và đi bộ vào trong nhà anh B thì phát hiện có cháu Nguyễn Phương T, sinh năm 2018 (con của chị V) đang nằm trên võng và bên cạnh cháu T có để 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime, màu đen đang mở phát nhạc. K quan sát không có ai nên K đi lại chỗ cháu T lấy trộm chiếc điện thoại Samsung J7 Prime và đem về nhà cấu giấu vào trong tủ quần áo rồi tiếp tục đi xe đạp ra ngoài đường đi tìm tài sản của ai có sơ hở để lấy trộm thì bị anh B phát hiện nên trình báo Công an phường Vĩnh Quang bắt giữ. Tại Công an phường Vĩnh Quang, K thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản và đưa Công an phường Vĩnh Quang về nhà thu hồi chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime mà K đã lấy trộm của vợ chồng chị V. Đến ngày 23/9/2019, Trương Tuấn K bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá khởi tố để điều tra.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung vụ án đã nêu trên.

* Vật chứng thu giữ trong vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Oppo A7, màu xanh, số Imei: 867939046872595, kiểu máy CPH1901, bị hư hỏng màn hình, đã qua sử dụng, do anh Nguyễn Hoàng B giao nộp (Bút lục số 09).

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime, màu đen, số kiểu máy SM-G610F/DS, số Imei 358861081891262, đã qua sử dụng, thu giữ tại nhà của Trương Tuấn K (Bút lục số 17).

- 01 (một) đĩa DVD màu trắng, bên trong có chứa dữ liệu ghi lại hình ảnh liên quan đến vụ trộm cắp tài sản, xảy ra ngày 12/7/2019 tại 109 Nguyễn Cư Trinh, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá - Đã được được đưa vào hồ sơ vụ án (Bút lục số 10, 58).

* Tại bản kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 144/KH-HĐĐG ngày 30/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá kết luận, tại thời điểm ngày 25/7/2019:

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime, màu đen, số kiểu máy SM-G610F/DS, số Imei 358861081891262, đã qua sử dụng, có giá trị là 2.200.000 đồng (Bút lục số 34, 35).

* Tại bản kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 148/KH-HĐĐG ngày 17/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá kết luận, tại thời điểm ngày 12/7/2019:

1. Tài sản xác định được giá trị:

- 01 (một) điện thoại Samsung Galaxy A7-2018 có phía trước là màn hình cảm ứng màu đen, phía sau màu vàng (qua hồ sơ), đã qua sử dụng, có giá trị là 2.700.000 đồng.

- 01 (một) điện thoại Oppo A7, màu xanh, số Imei: 867939046872595, kiểu máy CPH1901, bị hư hỏng màn hình, đã qua sử dụng, có giá trị là 1.600.000 đồng.

- 01 (một) điện thoại Oppo A7, màu xanh, số Imei: 867939046872595, kiểu máy CPH1901, khi không bị hư hỏng màn hình, đã qua sử dụng, có giá trị là 2.500.000 đồng.

2. Tài sản không xác định được giá trị:

- 01 (một) điện thoại di động Oppo có màn hình cảm ứng màu đen, đường viền bên hông màu trắng và phía sau màu vàng, do ông Nguyễn Thanh T mua vào tháng 06/2018 với giá 4.000.000 đồng tiền Việt Nam nhưng không có hóa đơn chứng từ, không rõ số imei, đời máy của điện thoại và chưa thu hồi được.

- 01 (một) điện thoại di động Oppo có màn hình cảm ứng màu đen, đường viền bên hông màu trắng và phía sau màu vàng, do bà Trịnh Thị Bích L mua tháng 07/2018 với giá 2.700.000 đồng tiền Việt Nam nhưng không có hóa đơn chứng từ, không rõ số imei, đời máy của điện thoại và chưa thu hồi được.

- 01 (một) điện thoại di động Samsung A5S6 có màn hình cảm ứng màu đen, phía sau màu vàng nhưng bị nứt trong quá trình sử dụng, do bà Trịnh Thị Bích L mua trong năm 2018 với giá 3.900.000 đồng tiền Việt Nam nhưng không có hóa đơn chứng từ, không rõ số imei, đời máy của điện thoại và chưa thu hồi được.

Do những tài sản trên không thu hồi được, không có hóa đơn chứng từ, không xác định được chủng loại, dung lượng, cấu hình, xuất xứ cụ thể nên không có cơ sở để định giá (Bút lục số 29, 30).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản nêu trên.

Bản cáo trạng số 27/CT-VKS ngày 17/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Trương Tuấn K về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích và đánh giá mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Trương Tuấn K – mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

* Về phần dân sự: Anh Lâm Thanh B đã nhận lại chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime và không có yêu cầu gì khác; anh Nguyễn Hoàng B không yêu cầu bị cáo K phải bồi thường cho anh số tiền 1.600.000 đồng. Ông Nguyễn Thanh T yêu cầu bị cáo K bồi thường cho anh 01 chiếc điện thoại với số tiền 2.000.000 đồng; bà Trịnh Thị Bích L yêu cầu bị cáo K bồi thường 02 chiếc điện thoại với tổng số tiền là 4.000.000 đồng, bị cáo K đồng ý bồi thường cho ông T và bà L khi chấp hành án xong.

* Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại Oppo A7, màu xanh, số Imei: 867939046872595, kiểu máy CPH1901, bị hư hỏng màn hình, đã qua sử dụng - do bị hại không đồng ý nhận lại.

(Theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 16, ngày 17/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá).

Tại phiên tòa, những người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt, nhưng trong quá trình điều tra đã có ý kiến trình bày yêu cầu về phần dân sự và hình phạt đối với bị cáo.

Sau khi nghe Kiểm sát viên luận tội, bị cáo đồng ý với quan điểm truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo. Tại phần nói lời sau cùng, bị cáo đã nhận thức rõ hành vi sai trái của mình và có ý kiến xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bảng Cáo trạng, kết luận điều tra và lời khai của những người tham gia tố tụng khác. Từ đó có đủ cơ sở kết luận:

Trương Tuấn K là người đã có 04 tiền án về các tội trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản, chưa được xóa án tích. Do nghiện ma túy và để có tiền mua ma túy sử dụng nên từ ngày 12/7/2019 đến ngày 25/7/2019, K đã thực hiện trót lọt 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Rạch Giá. Cụ thể như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 12/7/2019, tại phòng số 04, nhà cho thuê số 109 đường Nguyễn Cư Trinh, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, K lén lút lấy trộm 03 chiếc điện thoại di động của ông Nguyễn Thanh T và bà Trịnh Thị Bích L, sau đó đem đi cầm và bán được số tiền 5.300.000 đồng.

Khoảng 10 giờ ngày 25/7/2019, tại nhà của anh Lâm Thanh B và chị Nguyễn Thị Thúy V ở số 186/10A Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, K lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy J7 Prime (trị giá qua giám định là 2.200.000 đồng) đem về nhà K cất giấu, sau đó giao nộp cho cơ quan điều tra. Đến ngày 23/9/2019, Trương Tuấn K bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá khởi tố để điều tra về tội trộm cắp tài sản.

Hành vi của bị cáo Trương Tuấn K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và bản thân bị cáo đã từng có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản và Cướp giật tài sản” nên bị cáo ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích vụ lợi muốn có tiền tiêu xài và có tiền mua ma túy sử dụng mà không phải bỏ ra công sức lao động chân chính, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của nhiều người bị hại một cách trái pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của những người bị hại nói riêng và làm mất an ninh trật tự ở địa phương nói chung. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo, để răn đe giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, góp phần lập lại trật tự kỷ cương phép nước. [4] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự thú khai ra lần phạm tội trước mà chưa bị phát hiện. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng:

Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có 04 tiền án về tội Trộm cắp tài sản và Cướp giật tài sản, chưa được xóa án tích. Sau khi chấp hành án xong và được trở về địa phương, bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa chữa bản thân và phục thiện, mà lại tiếp tục phạm tội Cướp giật tài sản và bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 03 năm 06 tháng tù (Bản án số 183/2019/HSST ngày 12/11/2019), hiện nay đang chấp hành án tại Trại giam Kênh 7 - Bộ Công an. Việc bị cáo trượt dài vào con đường phạm tội như vậy thể hiện sự xem thường pháp luật ở bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội 02 lần, đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp và không có thu nhập. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại anh Lâm Thanh B và chị Nguyễn Thị Thúy V đã nhận lại tài sản bị mất trộm và không có yêu cầu gì khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Người bị hại ông Nguyễn Thanh T yêu cầu bị cáo K bồi thường giá trị chiếc điện thoại đã lấy trộm là 2.000.000 đồng; bà Trịnh Thị Bích L yêu cầu bị cáo K bồi thường giá trị 02 chiếc điện thoại đã lấy trộm là 4.000.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo K đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông T và bà L, nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường này.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hoàng B không yêu cầu bị cáo K bồi thường số tiền 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn đồng), nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime, màu đen, số kiểu máy SM-G610F/DS, số Imei 358861081891262, đã qua sử dụng, là tài sản do bị cáo lấy trộm của người bị hại Lâm Thanh B. Quá trình điều tra, đã trả lại cho người bị hại là phù hợp.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A7, màu xanh, số Imei 867939046872595, kiểu máy CPH1901, bị hư hỏng màn hình, đã qua sử dụng, do bị hại không đồng ý nhận lại, nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước là phù hợp.

[9] Về các vấn đề khác của vụ án:

- Đối với Trương Công L và Trần Thị Cẩm T đã cho bị cáo K sử dụng xe mô tô, biển kiểm soát 51R3-0359 nhưng vợ chồng ông L không biết K sử dụng và việc trộm cắp tài sản; anh Nguyễn Hoàng B và Đoàn Ngọc T2 đã mua 02 chiếc điện thoại của K nhưng anh B và anh T2 không biết đây là tài sản do K phạm tội mà có nên không truy cứu.

- Đối với người phụ nữ tên Xuân (chưa rõ tên thật và địa chỉ) đã mua chiếc điện thoại di động của K và bán trái phép chất ma túy K, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ, khi đủ căn cứ sẽ truy cứu sau.

[10] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Trương Tuấn K (Cú Mèo) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

-  Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Trương Tuấn K (Cú Mèo) – 03 (ba) năm tù. Cộng với hình phạt 03 năm 06 tháng tù của Bản án số 183/2019/HSST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Tổng hợp hình phạt cả 02 bản án bị cáo phải chấp hành chung là: 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam: ngày 06/8/2019.

* Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585; Điều 589 của Bộ luật Dân sự và Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

- Buộc bị cáo Trương Tuấn K bồi thường cho người bị hại ông Nguyễn Thanh T số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) và bồi thường cho người bị hại bà Trịnh Thị Bích L số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

 * Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của

Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại Oppo A7, màu xanh, số Imei: 867939046872595, kiểu máy CPH1901, bị hư hỏng màn hình, đã qua sử dụng - do bị hại không đồng ý nhận lại.

(Theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 16, ngày 17/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá).

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

- Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/6/2020). Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 100/2020/HSST ngày 30/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:100/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;