Bản án 100/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 100/2019/HS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 4 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 114/2019/HSST ngày 01 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 210/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lê Tiến B, sinh năm 1989

Nơi ĐKHKT: Phố BN, phường ĐH, TP. TH; Nơi ở: 16/50 NTH, phường TT, TP. TH; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: Lớp 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Tiến G sinh năm 1961 và bà: Nguyễn Thị S sinh năm 1963; Vợ: Mai Thị T , sinh năm 2001; Tiền sự: Không

Tiền án, Ngày 17/4/2015 bị TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/01/2017.

Nhân thân: Ngày 30/5/2018 bị TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù (được trừ 03 ngày tạm giữ) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo kháng cáo. Ngày 11/9/2018 Tòa phúc thẩm TAND tỉnh Thanh Hóa đình chỉ xét xử.

Bị tạm giữ từ ngày 19/7/2018 đến ngày 25/7/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt tại phiên tòa)

2. Lê Trường Gi , sinh năm 1990

Nơi ĐKHKT và chỗ ở: 188C LTT, phương ĐV, TP. TH; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Việt C , sinh năm 1960 và bà: Hoàng Thị L , sinh năm1966; Vợ: Mai Thị HT , sinh năm 1991, có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không 

Nhân thân: Ngày 28/11/2018 bị TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 48 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo kháng cáo. Bản án số 31 ngày 22/2/2019 của Tòa phúc thẩm TAND tỉnh Thanh Hóa xử phạt bị cáo 36 tháng tù.

Bị tạm giữ từ ngày 18/7/2018 đến ngày 24/7/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt tại phiên tòa)

3. Lê Thanh T , sinh năm 1988

Nơi ĐKHKT và chỗ ở: 279 LTT, phương ĐS, TP. TH, tỉnh TH; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Văn T , sinh năm 1960 và bà: Trịnh Thị H , sinh năm 1968; Vợ: Lê Ngọc L , sinh năm 1987; Tiền án, tiền sự: Không

Nhân thân: Ngày 04/8/2013 bị Công an TP Thanh hóa xử lý vi phạm hành chính về hành vi “Xâm phạm sức khỏe người khác”; Ngày 26/01/2014 bị Công an TP Thanh Hóa xử lý vi phạm hành chính về hành vi “Đánh nhau gây thương tích”; Ngày 29/01/2019 bị TAND huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp tài sản” trừ thời gian tạm giam từ 16/02/2017 đến 03/10/2017. Bị cáo kháng cáo, Tòa phúc thẩm TAND tỉnh Thanh Hóa chưa xét xử phúc thẩm.

Bị tạm giữ từ ngày 09/9/2018 đến ngày 12/9/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt tại phiên tòa)

4. Trần Ngọc K , sinh năm 1990

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn PK, xã HL, huyện HH, tỉnh TH; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Trần Ngọc Đ , sinh năm 1957 và bà: Lê Thị N sinh năm 1959; Tiền án, tiền sự: không

Nhân thân: Ngày 05/9/2018 bị Tòa phúc thẩm TAND tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ 28/3/2017 đến 19/6/2017.

Bị tạm giữ từ ngày 18/7/2018 đến ngày 24/7/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt tại phiên tòa)

5. Đỗ Mạnh T sinh năm 1995

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: 05 HĐ, phường ĐB, thành phố TH, tỉnh TH; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Đỗ Văn T , sinh năm 1970 và bà: Nguyễn Thị H sinh năm 1974.

Tiền án: Ngày 31/5/2017 bị TAND thành phố Thannh Hóa xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Tiền sự: Không

Bị tạm giữ từ ngày 17/9/2018 đến ngày 30/9/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ ngày 18/7/2018 tổ công tác thuộc đội 2 Phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Công an phường Ngọc Trạo làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba đường Lạc Long Quân giao nhau với Quốc lộ 1A thuộc phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa, phát hiện 2 người nam giới (một người ngồi trên mô tô màu trắng và một người đứng cạnh xe) có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác áp sát kiểm tra thì người ngồi trên xe mô tô điều khiển xe bỏ chạy, ném lại hai túi nilon màu trắng xuống đường cách vị trí người nam giới đang đứng khoảng 01 mét, tổ công tác tiến hành kiểm tra đối với người này. Đấu tranh sơ bộ người nam giới này khai: Tên là Trần Ngọc K , sinh năm 1990, trú tại thôn PK xã HL, huyện HH, tỉnh TH, hai túi ni lon màu trắng người đi xe mô tô ném lại mà Công an thu được là hai túi Ketamin của Lê Trường G và Lê Thanh T giao cho K và người đi xe mô tô đã bỏ chạy (K không biết tên, địa chỉ) mang đi bán, nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt giữ. Tổ công tác tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ tang vật, gửi giám định theo quy định pháp luật.

Tang vật thu giữ gồm: 02 túi nilon màu trắng bên trong đều chứa các chất màu trắng dạng tinh thể (niêm phong ký hiệu M); 01 điện thoại OPPO màu vàng nhạt màn hình cảm ứng (thu của K ).

Kết luận giám định số 1544/ MT-PC54 ngày 23/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất màu trắng dạng tinh thể của túi nilon kí hiệu G1 trong phong bì niêm phong có kí hiệu M gửi giám định là ma túy có khối lượng 3,014g loại Ketamin; Chất màu trắng dạng tinh thể của túi nilon kí hiệu G2 trong phong bì niêm phong có kí hiệu M gửi giám định là ma túy có khối lượng 12,818g loại Ketamin

Sau khi Trần Ngọc K bị bắt, ngày 18/7/2018 Lê Trường G đầu thú và giao nộp 01 điện thoại di động IPHONE màu vàng nhạt. Lê Tiến B đầu thú và tự nguyện giao nộp 1 túi nilon màu trắng viền xanh, 08 túi nilon màu trắng viền đỏ bên trong đựng ma túy tổng hợp, 04 viên nén màu xanh trên mặt mỗi viên dập nổi chữ NFL; 01 điện thoại di động OPPO màu vàng nhạt màn hình cảm ứng; 01 điện thoại di động NOKIA có chữ TA 1010. Cơ quan điều tra đã thu giữ tang vật, gửi giám định số ma túy Bảo giao nộp theo quy định pháp luật.

Kết luận giám định số 1542/ MT-PC54 ngày 24/7/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng dạng tinh thể trong túi nilon màu trắng viền xanh của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,882g loại Ketamin; Chất bột màu trắng dạng tinh thể trong 08 túi nilon màu trắng viền đỏ của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng 2,722g loại Methamphetamin; 04 viên nén màu xanh trên mặt mỗi viên đều có chữ NFL dập nổi của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng 1,427gam, Phòng Kĩ thuật hình sự từ chối giám định do vượt quá khả năng, do đó cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa trưng cầu Viện KHHS-Bộ Công an giám định bổ sung.

Kết luận giám định số 4627/C09(TT2) ngày 30/8/2018 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Mẫu các viên nén màu xanh, trên mặt mỗi viên có chữ NFL dập nổi của Phong bì kí hiệu T2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamin.

Tại Cơ quan điều tra Trần Ngọc K, Lê Trường G và Lê Tiến B khai nhận: Trần Ngọc K có người bạn tên là ĐA (K không biết địa chỉ người này) ĐA muốn mua ma túy (Ketamin) về bán nhưng không biết mua ở đâu nên nhờ K tìm nơi mua hộ. Ngày 17/7/2018 K đã điện thoại và nhắn tin trên Mesenger cho Lê Thanh T nhờ T tìm mua hộ Ketamin cho ĐA, đồng thời K cho T số điện thoại của ĐA để khi tìm được người bán thì T liên lạc với ĐA, T đồng ý. Sau khi K nhờ, T điện thoại cho G, T nói với G qua điện thoại nội dung: Có người bạn muốn mua Ketamin về bán và người mua muốn thử Ketamin trước nên G chuẩn bị hàng để người mua đến thử. Sau khi nhận được điện thoại của T, G ra khu vực cầu mới, phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa gặp một nam thanh niên không biết tên tuổi địa chỉ xin được một ít Ketamin mang về nhà và điện thoại báo cho T đưa người đến thử. T đi cùng với SC (tên khai sinh là Lê Mạnh T) và ĐA đến nhà G. Tại nhà G, Lê Mạnh T thấy đông người nên đi ra ngoài, G đưa gói Ketamin xin được cho ĐA thử, sau khi thử ĐA đồng ý mua một uôn (10 chỉ) Ketamin với giá 40 triệu đồng rồi nói đi về chuẩn bị tiền, T và G ngồi nói chuyện. G điện thoại cho Lê Tiến B hỏi mua 1 uôn Ketamin, B đồng ý bán cho G với giá 40 triệu đồng, G nói với B “Khi có Ketamin thì trích ra 1 ít cất đi, tiền nong tính toán sau”.

Sau đó B dùng số điện thoại 0961388422 gọi vào số 01658297696 của Lại Ngọc S (sinh năm 1988, trú tại: 11/421 Hàm Nghi, phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa) để hỏi mua 1 uôn Ketamin, S đồng ý bán cho B với giá 34 triệu đồng. Nguyễn Văn P là người đến nhà B lấy tiền cho S và đưa gói Ketamin cho B .

Sau khi có Ketamin B điện thoại cho G đến lấy, G điện thoại cho Đỗ Mạnh T nói Tuấn qua nhà G có việc. T đi xe máy Exeiter màu trắng (không nhớ biển kiểm soát) đến nhà G, G nói T đến nhà B lấy Ketamin về cho G. T đồng ý và điều khiển xe máy đến nhà B, B đưa cho T 02 gói Ketamin, T cầm về đưa cho G, G đưa lại cho T rồi G, T nói K (do T mới gọi đến nhà G) đi cùng T đưa Ketamin cho khách (ĐA) và K cầm tiền về cho T. K đồng ý và đi cùng T, T đi về nhà mình, G đi ngủ. T điều khiển xe mô tô chở K đến đường Lạc Long Quân giao nhau với đường 1A thì dừng lại đợi. Lúc này K xuống xe còn T vẫn ngồi trên xe. Khi thấy lực lượng công an đến kiểm tra T điều khiển xe mô tô bỏ chạy và ném 2 gói Ketamin xuống đất cạnh chỗ K đứng. K bị công an bắt giữ, lập biên bản và khai báo về nguồn gốc của 2 gói Ketamin như nêu trên. Khi biết K bị bắt, Lê Tiến B, Lê Trường G ra đầu thú. Lê Tiến B còn khai nhận: Ngoài lần mua bán ma túy với S, G, T vào ngày 17/7/2018 (như đã khai trên), ngày 14/7/2018, B còn mua của S 15 viên thuốc lắc, B đã dùng hết 11 viên còn lại 04 viên; Và mua của Trần Tuấn A (B không biết địa chỉ TA, không nhớ ngày mua) 08 gói ma túy đá. Số ma túy này B mua để sử dụng và bán kiếm lời nhưng chưa bán được cho ai, khi ra đầu thú B đã tự giác giao nộp số ma túy này cùng với số Ketamin B đã trích lại trong gói Ketamin mua của S ngày 17/7/2018 theo lời dặn của G. CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa đã triệu tập Lê Thanh T , Đỗ Mạnh T đến làm việc. Tại cơ quan CSĐT Lê Thanh T xin đầu thú và giao nộp 01 điện thoại di động Iphone màu đen và 01 điện thoại di động có chữ Mobell màu đen. T khai nhận hành vi của mình như lời khai của Trần Ngọc K và Lê Trường G khai trên. T thừa nhận việc K điện thoại nhờ T tìm mua Ketamin cho ĐA và T đã điện thoại cho G hỏi mua Ketamin. T cũng là người gọi K đến nhà G , tại nhà G T chính là người nói K đi cùng T để giao ketamin cho ĐA và nhận tiền về cho T .

Đối với Đỗ Mạnh T, sau khi phạm tội, vắng mặt tại nơi cư trú, ngày 27/9/2018 bị bắt theo quyết định truy nã. Tại cơ quan điều tra Đỗ Mạnh T khai nhận T được G giao đi đến nhà B lấy Ketamin. Khi T mang Ketamin về tới nhà G thì T và G nói T chở K đi giao số Ketamin này cho khách để K cầm tiền về cho T. T là người cầm Ketamin và điều khiển xe chở G , khi thấy công an đến kiểm tra T đã ném 2 gói Ketamin lấy từ nhà B xuống đất cạnh chỗ K đứng và bỏ chạy. Xe mô tô T đi ngày 17/7/2018 là xe của bạn (T không rõ tên, địa chỉ) sau khi bị Công an kiểm tra T bỏ chạy và đã trả xe mô tô lại cho bạn. Việc T mượn xe và đi lấy Ketamin cho G người bạn của T không biết.

Căn cứ lời khai của Lê Tiến B, Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập Lại Ngọc S và Nguyễn Văn P để làm rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Lê Tiến B . Quá trình ghi lời khai và đối chất cả S và P đều không thừa nhận việc đã bán ma túy cho B, khi B mua bán giao dịch với S và P không có người làm chứng do đó cơ quan CSĐT không có căn cứ để xử lý S và P.

Cơ quan điều tra cũng đã ra lệnh thu giữ thư tín điện tín yêu cầu tập đoàn viễn thông quân đội Viettel xác định chủ thuê bao các số điện thoại có liên lạc với điện thoại của các bị cáo vào ngày 17, 18/7/2018. Tuy nhiên đến ngày 01/02/2019 vẫn chưa có kết quả trả lời của tập đoàn viễn thông quân đội Viettel. Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ và xử lý sau.

Đối với Trần Tuấn A là người B khai bán 08 gói ma túy cho B, do B không biêt tên tuổi địa chỉ của người này nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh điều tra.

Đối với ĐA (người nhờ K tìm mua ma túy) do K và T không biết tên tuổi địa chỉ do đó không đủ cơ sở xác minh, xử lý

Vật chứng vụ án hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự TP. Thanh Hóa gồm: Một phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thanh Hóa, có hình dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thanh Hóa cùng chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Lại Thị Thanh Loan, Lê Minh Tiến, Nguyễn Văn Chung, Đinh Thị Mai Thanh; Một phong bì ma túy niêm phong ký hiệu T1 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thanh Hóa, có hình dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thanh Hóa cùng chữ ký cùng chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Lại Thị Thanh Loan, Lê Minh Tiến, Nguyễn Văn Chung, Đinh Thị Mai Thanh; Một phong bì ma túy niêm phong số 4627/C09(TT2) của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, có hình dấu của Viện khoa học hình sự cùng chữ ký, chữ viết của Nguyễn Thị Thu Loan, Lê Đình Ninh; 01 điện thoại di động OPPO màu vàng nhạt, điện thoại bị vỡ màn hình trước; 01 điện thoại di động OPPO màu vàng nhạt đã cũ; 01 điện thoại di động IPHONE màu vàng nhạt, model A1586; 01 điện thoại di động IPHONE màu đen, model A1429; 01 điện thoại di động NOKIA màu đen, model TA-1010; 01 điện thoại di động Mobell màu đen theo “Biên bản giao nhận vật chứng” số 124/THA ngày 02/4/2019 giữa Công an thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Cáo trạng số 101/CT-VKS-TPTH ngày 01/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Lê Tiến B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Truy tố Trần Ngọc K , Lê Trường G, Lê Thanh T , Đỗ Mạnh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự 

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56, 58, 38 - của Bộ luật hình sự (đối với Lê Tiến B). Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều  56, 58, Điều 38 - của Bộ luật hình sự (đối với Trần Ngọc K). Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1,2 Điều 51, 58, 38 - của Bộ luật hình sự (đối với Lê Thanh T); Áp dụng khoản 1 Điều 251; Khoản 2 Điều 51; Điều 56; 58; 38 - của Bộ luật hình sự (đối với Lê Trường G). Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56, 65, 58, 38 - của Bộ luật hình sự (đối với Đỗ Mạnh T ). Tuyên bố Lê Tiến B, Lê Trường G, Lê Thanh T, Trần Ngọc K, Đỗ Mạnh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt Lê Tiến B từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù; Lê Trường G từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù; Lê Thanh T từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù; Trần Ngọc K từ 4 năm 6 tháng đến 5 năm tù; Đỗ Mạnh T từ 4 năm 6 tháng đến 5 năm tù, tổng hợp hình phạt buộc các bị cáo B , G , K , T phải chấp hành hình phạt chung. Vật chứng vụ án: áp dụng khoản 1, khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; Tịch thu xung quỹ Nhà Nước 06 điện thoại là công cụ phương tiện các bị cáo dùng thực hiện tội phạm; Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Các bị cáo B, T, K, T thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất. Bị cáo G không thừa nhận việc đã gọi điện cho B để mua ma túy mà chỉ nói với T về việc T nhờ mua ma túy, sau đó T đã dùng điện thoại của G để gọi điện cho B mua ma túy. Tuy nhiên G thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình cùng với B, T, K, T ngày 17/7/2018 là vi phạm pháp luật, truy tố của Viện kiểm sát đối bị cáo là đúng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo B, T, K, T khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Tại phiên tòa, bị cáo G không thừa nhận hành vi đã gọi điện cho B để mua ma túy song G thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật, truy tố của Viện kiểm sát đối bị cáo là đúng. Mặt khác, lời khai của bị cáo B, T, T tại phiên tòa, lời khai của bị cáo G trong quá trình điều tra, cùng các tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra vụ án đủ căn cứ để khẳng định ngày 17/7/2018 G đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cùng các bị cáo trong vụ án.

Căn cứ hành vi của các bị cáo và kết quả giám định có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 17/7/2018 các bị cáo Lê Tiến B, Lê Trường G, Lê Thanh T, Trần Ngọc K, Đỗ Mạnh T đã có hành vi mua bán trái phép 15,832g chất ma túy, loại Ketamin, bị bắt quả tang hồi 00 giờ ngày 18/7/2018 tại khu vực ngã ba đường Lạc Long Quân giao nhau với Quốc lộ 1A thuộc phường Ngọc Trạo, TP. Thanh Hóa. Riêng Lê Tiến B còn có hành vi mua 2,722g ma túy loại Methamphetamine và 2,309g ma túy loại Ketamin nhằm mục đích bán kiếm lời. Do đó B phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng lượng ma túy mà Bảo mua bán trái phép là 20,863g.

Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.Viện kiểm sát nhân dân TP. Thanh Hóa truy tố bị cáo Lê Tiến B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251; Truy tố các bị cáo Lê Trường G, Lê Thanh T, Trần Ngọc K, Đỗ Mạnh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án: Vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, hành vi mua bán trái phép chất ma túy của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lí của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma túy. Xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hành vi phạm tội khác nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc để đảm bảo tính răn đe giáo dục đối với các bị cáo.

[3] Xét vai trò đồng phạm của các bị cáo: Vụ án có đồng phạm giản đơn, không có câu kết chặt chẽ. Các bị cáo đều là người thực hành, trực tiếp thực hiện tội phạm. Tuy nhiên bị cáo B, ngoài việc chịu trách nhiệm hình sự đối với số ma túy đã thực hiện mua bán cùng các bị cáo khác, còn phải chịu trách nhiệm riêng đối với số ma túy bị cáo mua nhằm mục đích bán kiếm lời nhưng chưa bán được, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng trọng lượng ma túy là 20,863g (gồm 18,141g Ketamin và 2,722g Methamphetamin), bị truy tố theo khoản 2 Điều 251 nên phải chịu hình phạt cao nhất. Bị cáo G , T có vai trò tích cực, chủ động trong việc thực hiện tội phạm lớn hơn bị cáo K , T nên phải chịu trách nhiệm và hình phạt cao hơn bị cáo K, T .

[4.] Xét tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Lê Tiến B, Trần Ngọc K, Lê Thanh T, Đỗ Mạnh T đều thành khẩn khai báo do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51- Bộ luật hình sự. Bị cáo G, B, T được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Đầu thú” quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo B, bị cáo T chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52- BLHS.

Nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân xấu, đến thời điểm ngày 03/4/2019, các bị cáo đều đã bị Tòa án kết án về những hành vi phạm tội khác, thể hiện sự coi thường pháp luật của các bị cáo. Vì vậy, HĐXX xem xét để có hình phạt tương xứng đảm bảo tính răn đe đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Tuy nhiên cần phải cách li các bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện đề giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội, và để phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về tổng hợp hình phạt: Áp dụng Điều 56 BLHS để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo B , G , K , T . Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2019/HSST ngày 29/01/2019 của TAND huyện Hoằng Hóa xét xử đối với bị cáo T bị kháng cáo, chưa có hiệu lực. Do đó sẽ tổng hợp hình phạt khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[6] Đối với Lại Ngọc S, Nguyễn Văn P, Trần Tuấn A là những người bị cáo B khai đã bán ma túy cho B; ĐA là người bị cáo K khai nhờ K mua ma túy. Quá trình điều tra, đối chất, S, P không thừa nhận và không có nhân chứng vật chứng do vậy không có căn cứ để xử lý. Đối với TA, ĐA bị cáo B, K không biết địa chỉ nên không có cơ sở xác minh làm rõ.

[7] Vật chứng vụ án: Xét số ma túy mẫu vật còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 06 chiếc điện thoại di động là phương tiện công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước khi án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 - BLTTHS

[8] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp.

[9] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 BLTTHS; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56, 58, 38 - của Bộ luật hình sự (đối với Lê Tiến B). Căn cứ khoản 1 Điều 251; khoản 2 Điều 51; Điều 56, 58, 38 - của Bộ luật hình sự (đối với Lê Trường G). Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58, Điều 38 - của Bộ luật hình sự (đối với Lê Thanh T). Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56, 58, Điều 38 - của Bộ luật hình sự (đối với Trần Ngọc K). Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56, 58, 65, 38 - của Bộ luật hình sự (đối với Đỗ Mạnh T).

- Tuyên bố các bị cáo Lê Tiến B, Lê Trường G, Lê Thanh T, Trần Ngọc K, Đỗ Mạnh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt Lê Tiến B 07 năm 06 tháng tù, tổng hợp với hình phạt còn lại của bản án số 106 ngày 30/5/2018 của TAND thành phố Thanh Hóa là 23 tháng 27 ngày tù. Buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung là 09 (chín) năm 05 (năm) tháng 27 (hai bảy) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/7/2018

- Xử phạt Lê Trường G 05 (năm) năm tù, tổng hợp với hình phạt 36 tháng tù của bản án số 31 ngày 22/2/2019 của Tòa phúc thẩm TAND tỉnh Thanh Hóa. Buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung cho cả hai bản án là 8 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/7/2018

- Xử phạt Lê Thanh T năm 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/09/2018.

- Xử phạt Trần Ngọc K 04 năm 06 tháng tù, tổng hợp với hình phạt còn lại của bản án phúc thẩm số 160/2018/HSPT ngày 05/9/2018 của Tòa phúc thẩm TAND tỉnh Thanh Hóa là 06 (sáu) năm 03 (ba) tháng 08 (tám) ngày tù. Buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung là 10 (mười) năm 09 (chín) tháng 08 (tám) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/7/2018

- Xử phạt Đỗ Mạnh T 04 năm 06 tháng tù, tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù của bản án số 129/2017/HSST ngày 31/5/2017 của TAND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 05 (năm) 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/9/2018

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Sau khi án có hiệu lực pháp luật, tịch thu nộp Ngân sách Nhà Nước 06 điện thoại di động; Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định. Vật chứng được niêm phong và đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự TP.Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 124/THA ngày 02/4/2019 giữa Công an thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 - BLTTHS; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Lê Tiến B, Lê Trường G, Lê Thanh T, Trần Ngọc K , Đỗ Mạnh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Lê Tiến B, Lê Trường G, Lê Thanh T, Trần Ngọc K, Đỗ Mạnh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 100/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;