Bản án 100/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 100/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 523/2019/TLST-HNGĐ ngày 04-6-2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ngọc V, sinh năm 1987; thường trú: 127/1B khu phố 2, phường T, Quận 12, Thành phố H. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc Tiến Đ, sinh năm 1985; tạm trú: A2/10 chu cư Th, khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh B. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Lê Trung T, sinh năm 1954; địa chỉ: thường trú: 127/1B khu phố 2, phường T, Quận 12, Thành phố H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23-5-2019 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc V trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Ngọc V và anh Nguyễn Ngọc Tiến Đ tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2009, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND phường T, Quận 12, Thành phố H, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 118, ngày 21/9/2010. Chị V xác định quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Đ không dành thời gian quan tâm chăm sóc gia đình, không đưa tiền phụ chị chăm lo cho gia đình, lo cho con. Mỗi lần chị góp ý thì vợ chồng xảy ra cãi vã. Cuộc sống hôn nhân ngày càng căng thẳng, tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, vợ chồng không còn dành tình cảm cho nhau. Vì con chị đã cố gắng vun vén, chịu đựng để vợ chồng có thêm cơ hội hàn gắn nhưng cuộc sống hôn nhân càng kéo dài thì càng mệt mỏi, không có lối thoát. Chị và con đã chuyển về sinh sống chung với ba mẹ tại số 127/1B khu phố 2, phường T, Quận 12, Thành phố H từ khoảng cuối năm 2013 cho đến nay. Nay chị V xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh Đ.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con tên Nguyễn Ngọc Tiến D, sinh ngày 05/6/2009. Hiện nay con đang ở với chị tại số 127/1B khu phố 2, phường T, Quận 12, Thành phố H. Hiện nay chị làm nghề nail thu nhập mỗi tháng 7.000.000 đồng, chị có chỗ ở ổn định, đảm bảo tốt việc chăm sóc con nên sau khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Nguyễn Ngọc Tiến Đ đã được Tòa án thông báo tham gia tố tụng, thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ, tống Đ các văn bản tố tụng nhưng anh không đến Tòa án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên căn cứ vào các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Chị Lê Thị Ngọc V khởi kiện anh Nguyễn Ngọc Tiến Đ yêu cầu được ly hôn nên đây là vụ án hôn nhân và gia đình tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Ngọc Tiến Đ có nơi cư trú tại khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh B nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 14/8/2019 và ngày 30/8/2019 nhưng đều vắng mặt không lý do. Căn cứ các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị V và anh Đ có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, Quận 12, Thành phố H và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 118, ngày 21/9/2010 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Chị V xác định quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Đ ham chơi, không chăm chỉ làm ăn, không giành thời gian chăm sóc gia đình, không chăm sóc vợ con, không phụ chị về kinh tế để trang trải cuộc sống gia đình. Để con có cuộc sống đầy đủ cả cha và mẹ chị V đã nhiều lần tha thứ nhưng anh Đ không thay đổi. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn, thường xuyên cãi vã, xúc phạm lẫn nhau, vợ chồng không thể tiếp tục sống chung nên chị cùng con đã chuyển đến số 127/1B khu phố 2, phường T, Quận 12, Thành phố H sống riêng từ đầu năm 2013 đến nay và yêu cầu được ly hôn. Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để Đ được mục đích đó vợ chồng cần phải thương yêu, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt, xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc. Chị V xác định quan hệ hôn nhân của vợ chồng có nhiều mâu thuẫn và hiện cả hai đã ly thân, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Anh Đ đã được Tòa án triệu tập làm việc và tham gia hòa giải nhưng đều vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh, trước khi Tòa án thụ lý vụ án chị V và anh Đ không ai có đơn đề nghị hòa giải tại cơ sở, điều này phù hợp với lời khai của nguyên đơn. Ông Lê Trung Tâm là ba ruột của chị V có lời khai thể hiện hiện nay chị V và anh Đ đã sống ly thân, cuộc sống hôn nhân của vợ chồng có nhiều mâu thuẫn như chị V trình bày. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị V và anh Đ đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không Đ được. Do đó, chị V yêu cầu được ly hôn với anh Đ là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Tiến D, sinh ngày 05/6/2009. Hiện nay con đang ở chung với chị V tại số 127/1B khu phố 2, phường T, Quận 12, Thành phố H. Sau khi ly hôn chị V yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con. Khi Tòa án giải quyết việc ly hôn cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu Dũng từ trước đến nay sống cùng mẹ vẫn phát triển tốt. Chị V có việc làm và thu nhập 7.000.000 đồng/tháng, có chỗ ở ổn định đảm bảo cho việc chăm sóc và nuôi dưỡng con; hơn nữa trong bản tư khai cháu Dũng cũng có mong muốn được tiếp tục sống với mẹ. Vì vậy, chị V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là có căn cứ, phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị V không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con, xét đây là ý chí tự nguyện của chị nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Ngọc V phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 và các Điều 227, 238, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Ngọc V đối với anh Nguyễn Ngọc Tiến Đ về việc ly hôn, nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Ngọc V được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc Tiến Đ ( Giấy chứng nhận kết hôn số 118 do Uỷ ban nhân dân phường T, Quận 12, Thành phố H cấp ngày 21/9/2010).

- Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Ngọc Tiến D, sinh ngày 05/6/2009 cho chị Lê Thị Ngọc V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Sau ly hôn, chị V và anh Đ đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Đ lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị V nuôi con thì chị có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Ngọc V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0028665, ngày 04-6-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống Đ hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 100/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:100/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;