TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 100/2018/HS-ST NGÀY 09/11/2018 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 09 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm Vụ án hình sự thụ lý số: 96/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 645a/2018/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
- Nguyễn C (tức C Cò), sinh ngày 12 tháng 02 năm 1983 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Số 3 PBT, phường TR, quận BD, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Việt (đã chết) và bà Phạm Thị Tuyết; có vợ Nguyễn Ngọc Phương và 01 con; tiền án, tiền sự: Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2000/HSST ngày 09/03/2000 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng về tội “Cướp tài sản của công dân” (chưa được xóa án tích); bị cáo hiện đang chấp hành án tù chung thân tại Trại giam Tân Lập – Bộ Công an về tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý” của Tòa án đại hình trung ương Vương quốc Anh” bị bắt ngày 29/01/2007
. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22h45’ ngày 05/6/2002, Nguyễn C cùng với Chiêm Hồng C, sinh năm: 1980, trú tại: số 10/143 Hàng Kênh, phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân đang đi chơi thì nhận được điện thoại của Huy Trề (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) gọi cho Nguyễn C nói bị đánh ở khu vực hiệu vàng Kim Hoan trên đường Lạch Tray, quận Ngô Quyền. C bảo Chiêm Hồng C dùng xe máy chở đến đường Lạch Tray, quận Ngô Quyền để tìm Huy Trề nhưng không thấy. Khi đi ngang qua quán nước mía của bà Phạm Thị Năm ở vỉa hè đầu ngõ 55 đường Lạch Tray, Ngô Quyền, C nhìn thấy nhóm anh Phạm Văn Dũng, sinh năm: 1982, trú tại: số 25 tổ 10, phường Đằng Hải, quận Hải An và Nguyễn Hải C, sinh năm: 1978, trú tại: tầng 5 cầu thang 4 A6, tổ A5, A6, phường Quán Toan, quận Hồng Bàng, cùng hơn chục nam thanh niên khác (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đang ngồi uống nước mía tại đó. C nhận ra trong số thanh niên ngồi uống nước mía có vài người đã từng mâu thuẫn đánh nhau với nhóm của C trước đó nên bảo Chiêm Hồng C dừng xe lại, C rút khẩu súng bắn đạn thể thao mang theo sẵn giấu ở trong bụng giơ lên nhắm vào nhóm anh Phạm Văn Dũng, Nguyễn Hải C bắn 2 - 3 phát nhưng không trúng ai rồi nhảy lên xe máy do Chiêm Hồng C điều khiển bỏ chạy về phía ngã tư Quán Mau, phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền. Thấy vậy anh Nguyễn Hải C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 16H5 - 7430 chở Phạm Văn Dũng và một số thanh niên (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) cầm dao, kiếm đuổi theo. Khi đến khu vực đối diện trước cửa nhà số 184 đường Lạch Tray, C quay lại tiếp tục dùng súng bắn 2 - 3 phát về phía nhóm thanh niên đang đuổi theo nhưng không trúng ai. Sau đó Chiêm Hồng C chở Nguyễn C bỏ chạy vào đường An Đà, phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền, anh Nguyễn Hải C và Phạm Văn Dũng tiếp tục đuổi theo đến đoạn trước cửa Nhà máy nhựa Tiền Phong trên đường An Đà thì bị lực lượng Cảnh sát 113 Công an thành phố Hải Phòng bắt giữ được Nguyễn Hải C, thu giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 16H5 - 7430; 01 kiếm dài 50cm, cán dài 12cm, bản rộng lưỡi kiếm 02cm, vỏ kiếm bằng nhựa màu nâu và 01 tuýp sắt phi 27, đầu gắn dao bầu dài 32cm, bản rộng 12cm, đã han gỉ, đưa về trụ sở Công an phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền giải quyết. Khẩu súng C dùng để bắn nhóm anh Phạm Văn Dũng, C đã đưa lại cho Chiêm Hồng C cất giữ rồi bỏ trốn.
Kết quả khám nghiệm hiện trường thể hiện: Vị trí nổ súng ban đầu tại vỉa hè bên trường Lạch Tray, vỉa hè rộng 5,1m, bên Đông vỉa hè giáp với tường bao nhà để xe Cung văn hóa thiếu nhi Hải Phòng. Tại vị trí này là nơi bán nước giải khát thời gian từ 19h đến 24h hàng ngày của bà Năm ở số 7/156 Lạch Tray. Thu giữ 01 vỏ đạn nằm tại lòng đường Lạch Tray, trước cửa số nhà 184 đường Lạch Tray và cách cửa nhà 184 Lạch Tray 1,5m về phía Đông, vị trí này cách vị trí nổ súng ban đầu 50m về phía Nam.
Tại Bản kết luận giám định số 357/PC21 ngày 08/06/2002 của Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Vỏ đạn màu đồng vàng miệng bị biến dạng có kí hiệu “O” dài 15,5 mm thu được tại hiện trường nói trên gửi giám định thuộc loại đạn thể thao 5,6 mm x 15,5 mm dùng cho các loại súng thể thao có cỡ nòng 5,6 mm. So sánh vỏ đạn trên với các mẫu lưu trữ tại Phòng PC21 Công an thành phố Hải Phòng không đúng với vụ án nào.
Trong thời gian bỏ trốn, Nguyễn C xuất cảnh trái phép sang Vương quốc Anh. Ngày 29/01/2007, Nguyễn C bị cảnh sát Anh quốc bắt giữ về hành vi giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý. Tòa án đại hình trung ương Vương quốc Anh xử phạt tù chung thân. Ngày 22/8/2017, Nguyễn C được chuyển giao về Việt Nam và hiện đang chấp hành án tù chung thân tại Trại giam Tân Lập - Bộ Công an.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn C khai nhận hành vi của mình như đã nêu trên, lời khai nhận tội của C phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang; phù hợp với lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Khẩu súng thể thao C dùng để bắn nhóm anh Phạm Văn Dũng, Nguyễn Hải C, C khai là của Chiêm Hồng C, hiện Chiêm Hồng C đã bị ốm bệnh chết vào ngày 14/4/2007 nên Cơ quan điều tra không thu giữ được khẩu súng trên và không xử lý đối với Chiêm Hồng C.
Về vật chứng: 01 kiếm dài 50cm, cán dài 12cm, bản rộng lưỡi kiếm 02cm, vỏ kiếm bằng nhựa màu nâu; 01 tuýp sắt phi 27, đầu gắn dao bầu dài 32cm, bản rộng 12cm, đã han gỉ; 01 vỏ đạn màu đồng vàng miệng bị biến dạng, dài 15,5 mm, chuyển Cục thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng chờ xử lý.
Đối với xe máy biển kiểm soát 16H5 - 7430 thu giữ của Nguyễn Hải C, qua xác minh anh Nguyễn Hải Nam (anh trai C) là chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nam.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận như nội dung bản cáo trạng. Bị cáo không có mục đích bắn chết người chỉ dọa vì bị tấn công, bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến an toàn xã hội.
Tại phiên tòa, Kiêm sat viên vân giư nguyên quan điêm truy tô các bi cao như nôi dung ban Cao trang va đê nghi Hội đồng xét xử : Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999 (nay là điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015); Điều 38, Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn C từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” và đề nghị Hội đồng xét xử tổng hợp 03 Bản án với mức hình phạt chung là tù Chung thân. Về vật chứng, quyền kháng cáo, án phí theo quy định pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của Kiểm sát viên, phần lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của người bị hại cùng các tài liệu tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về tội danh:
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 05 tháng 6 năm 2002 tại đường Lạch Tray, phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, bị cáo Nguyễn C đã 02 lần dùng súng thể thao bắn nhóm anh Phạm Văn Dũng, Nguyễn Hải C cùng hơn chục nam thanh niên khác (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) không trúng ai nhưng gây mất trật tự trị an xã hội, coi thường pháp luật, đồng thời làm náo loạn đường phố gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn C bị xét xử về tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại Điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999 (nay là Điều 318 BLHS năm 2015) như Viện kiểm sát truy tố và kết luận là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo không những đã xâm phạm đến trật tự an ninh công cộng, an toàn xã hội ở địa phương mà còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác nên cần xét xử nghiêm.
- Về tình tiết định khung hình phạt:
[4] Hành vi của bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thuộc trường hợp đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích mà còn dùng vũ khí nguy
hiểm để phạm tội. Vì vậy, bị cáo bị xét xử theo điểm a khoản 2 Điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999, do điểm a khoản 2 Điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999 có khung hình phạt tương đương với điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015 để xét xử bị cáo.
- Về hình phạt và tổng hợp hình phạt:
[5] Nhân thân bị cáo có 01 tiền án về tội “Cướp tài sản của công dân” chưa được xóa án tích nhưng trong thời gian thử thách lại phạm tội. Vì vậy lần phạm tội này của bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đối với Bản án tù chung thân của bị cáo về tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý” của Tòa án đại hình trung ương Vương quốc Anh không tính để xác định tái phạm hay tái phạm nguy hiểm vì hành vi của bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” xảy ra trước khi chưa có Bản án trên. Song cũng xét thấy, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét tính chất, mức độ, hành vi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo không tốt do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội 1 thời gian để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung. Mặt khác, do bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách đối với Bản án về tội “Cướp tài sản của công dân” đã xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo nay chuyển giam và tổng hợp Bản án bị cáo đang thi hành án tù chung thân về tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý” của Tòa án đại hình trung ương Vương quốc Anh. Vì vậy cần áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 tổng hợp hình phạt của 03 bản án đối với bị cáo Nguyễn C buộc bị cáo phải chấp hành.
- Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 kiếm dài 50cm cán dài 12cm bản rộng lưỡi kiếm 2 cm, vỏ kiếm bằng nhựa màu nâu; 01 tuýt sắt phi 27 đầu gắn dao bầu dài 32cm đã han rỉ; 01 vỏ đạn mầu đồng vàng mệnh bị biến dạng dài 15,5cm không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015; Điều 38, Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử:
Bị cáo Nguyễn C (tức C cò): 30 (ba mươi) tháng về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp với hình phạt tại Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2000/HSST ngày 09/03/2000 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo chuyển giam buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung 02 Bản án là 48 (bốn tám) tháng tù. Đồng thời tổng hợp với Bản án HSST ngày 16/11/2007 của Tòa án đại hình trung ương Vương quốc Anh về tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý” xử bị cáo tù chung thân hiện đang thi hành. Buộc bị cáo Nguyễn C (tức C Cò) phải chấp hành hình phạt chung cho 03 Bản án là tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị bắt 29/01/2007.
- Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 kiếm dài 50cm cán dài 12cm bản rộng lưỡi kiếm 2 cm, vỏ kiếm bằng nhựa màu nâu; 01 tuýt sắt phi 27 đầu gắn dao bầu dài 32cm đã han rỉ; 01 vỏ đạn mầu đồng vàng mệnh bị biến dạng dài 15,5cm. (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 9 năm 2018 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng)
- Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 100/2018/HS-ST ngày 09/11/2018 về tội gây rối trật tự công cộng
Số hiệu: | 100/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về