TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 09/2024/HS-ST NGÀY 09/01/2024 VỀ TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 09 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 360/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:371/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: |
TRỊNH MINH H |
Giới tính: Nam |
Tên gọi khác: |
Không |
|
Sinh năm: |
2002 |
tại: Hà Nội |
HKTT: Tập thể Cơ khí Trần Hưng Đ, P. Đồng N, quận Hai Bà T, HN. Chỗ ở: Như trên.
Nghề nghiệp: Lao động tự do Văn hóa: 12/12 Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Con ông: Không rõ Con bà: Trịnh Anh T SN: 1982. Gia đình có 03 anh chị em, bị can là con thứ 3. Tiền án, tiền sự: Không (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)
- Bị hại:
- Bị cáo Trịnh Minh H.
- Bị hại: Cháu Nguyễn Thị Huyền T– sinh năm: 2007 (Có mặt)
Người giám hộ của bị hại: Chị Lê Thị H– sinh năm: 1986 (mẹ đẻ của Cháu T); Cùng địa chỉ: Tổ 12 phường TB, LB, HN. (Có đơn xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 21/4/2023, công an phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội nhận được đơn của cháu Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm: 24/7/2007, HKTT: tổ 12 phường TB, LB, HN ( Cháu T 15 tuổi, 05 tháng, 30 ngày) tố giác Trịnh Minh H, sinh năm: 13/5/2002, HIKU P48F2 tập thể Cơ khí Trần Hưng Đ, dốc Thọ L, phường Đồng N, Hai Bà T, HN có hành vi giao cấu với Cháu T ngày 23/01/2023 tại tổ 12 phường Thạch Bàn, Long Biên, Hà Nội dẫn đến việc Cháu T có thai.
Sau khi tiếp nhận đơn tố cáo, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên đã điều tra, làm rõ nội dung vụ án như sau:
Vào tháng 10/2022, cháu Nguyễn Thị Huyền T có quen biết và nảy sinh tình cảm với Trịnh Minh H (có nhân thân như trên). Sau một thời gian quen biết đến ngày 23/01/2023 (tức mùng 2 tết nguyên đán), bố mẹ T cùng em của T đi về quê chúc tết nên H có đến nhà T tại tổ 12 phường TB, LB, HN. Tại giường ngủ tầng 2, từ ngày 23/01/2023 đến ngày 26/01/2023, H và T đã quan hệ tình dục với nhau 04 lần, H không sử dụng bao cao su và xuất tinh vào trong âm đạo của Cháu T. Ngoài ra những ngày sau đó, H tiếp tục đến nhà Cháu T và giao cấu với Cháu T nhiều lần tại đệm trong tầng lửng lối cầu thang từ tầng 1 lên tầng 2 nhà Cháu T ( Cả Cháu T và H không nhớ cụ thể bao nhiêu lần). Đến giữa tháng 02/2023, Cháu T được gia đình đưa đi khám phát hiện T đã có thai. Đến tháng 3/2023, giữa Cháu T và H có xảy ra mâu thuẫn, H đã yêu cầu T phải phá bỏ thai trên nhưng T không đồng ý. Vì vậy, đến ngày 21/4/2023, Cháu T cùng gia đình đã đến Công an phường Thạch Bàn trình báo sự việc trên.
Sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm nêu trên, Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên đã ra Quyết định trưng cầu giám định Xâm hại tình dục ở trẻ em và Giám định ADN đối với cháu Nguyễn Thị Huyền T.
Kết luận giám định Xâm hại tình dục ở trẻ em của TTPY Hà Nội:
1. Các kết quả chính:
1.1. Bộ phận sinh dục ngoài của chị Nguyễn Thị Huyền T phát triển bình thường. Lông mu đen dài, nhiều, kích thước trung bình 3-5cm. Môi lớn, môi bé phát triển bình thường, không có vết sây sát sưng nề bầm tím. Vùng âm hộ, tầng 2 sinh môn binh thường, không có vết sây sát sưng nề bầm tím. Màng trinh dạng cảnh hoa, có vết rách cũ vị trí 9 giờ, màng, không có vết rách mới, không có vết sây sát sưng nề bầm tím. Lỗ màng trình giãn rộng. Các thành âm đạo và cổ tử cung đóng kín. Tầng sinh môn binh thường không có vết sây sát sưng nề bầm tím.
1.2. Kết quả khám lâm sàng:
- Xét nghiệm phát hiện dấu vết tinh dịch – PSA Card trên mẫu dịch âm đạo, quần lót: Âm tính.
- Xét nghiệm nhuộm soi mẫu bệnh phẩm lấy từ mẫu dịch âm đạo: Không có hình ảnh tình trùng trên tiêu bản.
2. Kết luận:
- Tại thời điểm giám định bộ phận sinh dục ngoài phát triển bình thường, không có thương tích, Màng trinh dạng cánh hoa, có vết rách cũ vị trí 9 giả màng, không có vết rách mới, không có vết sưng nề bẩm tim. Lỗ màng trinh giãn rộng - Bản kết luận giám định ADN số 61/23/KLGDADN-PYHN ngày 17/5/2023 của Trung tâm pháp y Hà Nội.
+ Không thu được ADN nhiễm sắc thể Y từ mẫu dịch âm đạo của Nguyễn Thị Huyền T trên các locus Y – STR đã phân tích Ngày 15/10/2023, cháu Nguyễn Thị Huyền T sinh con gái tên Nguyễn Ngọc An N, nặng 3,5kg.
Ngày 24/10/2023 Cơ quan điều tra Công an quận Long Biên ra Quyết định trưng cầu giám định số 910 gửi Trung tâm pháp y Hà Nội để xác định quan hệ huyết thống bố- con giữa cháu Nguyễn Ngọc An N với Trịnh Minh H.
Tại Bản kết luận giám định ADN số 212 ngày 27/10/2023 của Trung tâm pháp y Hà Nội kết luận: Trịnh Minh H có quan hệ huyết thống bố- con với ngưởi có tên dự kiến Nguyễn Ngọc An N, độ tin cậy 99,9999%.
Tại Cơ quan điều tra, Trịnh Minh H khai nhận lại toàn bộ hành vi giao cấu với cháu Nguyễn Thị Huyền T từ ngày 23/01/2023 đến ngày 26/01/2023 (thời điểm đó Cháu T 15 tuổi, 05 tháng, 30 ngày).
Về dân sự: Cháu Nguyễn Thị Huyền Tvà người giám hộ cho Cháu T không yêu cầu H bồi thường và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho H.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Trịnh Minh H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, công nhận toàn bộ nội dung bản cáo trạng đúng với hành vi của bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại bản cáo trạng số 334/CT-VKS ngày 30/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố Trịnh Minh H về tội “ Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a,d khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017”.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, xét nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS: Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn 3 khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, người bị hại và người giám hộ cho bị hại đều có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS;
Đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo do các bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Long Biên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên: trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
[2]. Về tội danh: Các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng tang vật thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận:
Trong các ngày từ ngày 23/01/2023 đến ngày 26/01/2023, tại nhà của cháu Nguyễn Thị Huyền T ở tổ 12 phường TB, LB, HN, Trịnh Minh H có hành vi quan hệ tình dục 04 lần với Cháu T khi Cháu T chưa đủ 16 tuổi (15 tuổi, 5 tháng, 30 ngày) dẫn đến việc Cháu T có thai và sau đó ngày 15/10/2023 sinh con là cháu Nguyễn Ngọc An N có quan hệ huyết thống bố - con với Trịnh Minh H. [3]. Trách nhiệm hình sự và hình phạt:
Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người khác được pháp luật bảo vệ nên đã phạm tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ” quy định tại điểm a,d khoản 2 Điều 145 BLHS.
Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
[4]. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Tình tiết tăng nặng: Không
[4.2.] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nhân thân chưa có TATS, người bị hại và người giám hộ cho bị hại đều có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5]. Về hình phạt bổ sung:
Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6.]. Về dân sự: Do bị hại không có yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
[7] Bị cáo phải nộp án phí theo quy định pháp luật.
[8] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. - Áp dụng điểm điểm a,d khoản 2 Điều 145 BLHS, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự 2015;
Tuyên bố bị cáo Trịnh Minh H phạm tội ““Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ”.
Xử phạt: Bị cáo Trịnh Minh H 36 ( Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2023.
2. Về án phí:
Áp dụng Khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm
4. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ khi tuyên án. Những người tham gia tố tụng vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 09/2024/HS-ST về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Số hiệu: | 09/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về