TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 09/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Trong ngày 29 tháng 03 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 240/2023/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2023 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2024/QĐXXST- HNGĐ ngày 16 tháng 2 năm 2024 và quyết định hoãn phiên tòa số 04/2024/QĐST – HNGĐ ngày 06 tháng 03 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị L – sinh năm 2001 Nơi ĐKHKTT: Xóm 6, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình.
Hiện cư trú tại địa chỉ: Xóm 10, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Lại Đức H – sinh năm 1996.
Nơi ĐKHKTT và trú tại: Xóm 6, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt. Chị L có đơn xin xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt lần 2 không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các văn bản khác có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn là chị Trần Thị L trình bày: Chị L và anh Lại Đức H sau thời gian tự do tìm hiểu đã tự nguyện kết hôn với nhau. Đăng ký kết hôn ngày 04 tháng 03 năm 2022 tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng về nhà anh H tại xóm 6, xã Q làm ăn sinh sống, Sau thời gian chung sống H phúc khoảng một năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do bất đồng quan điểm lối sống, mặt khác anh H chơi bời không tu trí làm ăn, đánh đập chị và sống không có trách Nệm với gia đình vợ con. Do không chịu được cuộc sống bên nhà anh H nên chị đã bế con về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 3 năm 2023 cho đến nay hai bên không liên lạc, không quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và anh chị không có khả năng về đoàn tụ. Do vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh H để chị ổn định cuộc sống.
Về con chung: Chị và anh H có một con chung cháu Lại Yến N sinh ngày 06 tháng 01 năm 2023. Hiện cháu N đang ở cùng với chị Nay ly hôn chị nhận nuôi cháu N. Chị không yêu cầu anh H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con chung.
Về tài sản chung và công nợ chung: Chị và anh H không có tài sản chung và công nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Bị đơn trong vụ án là anh Lại Đức H hiện đang cư trú tại xóm 6, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Tòa án nhân dân huyện K đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho anh Lại Đức H và giao các tài liệu chứng cứ theo đề nghị của nguyên đơn, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh H nhưng anh H không ký nhận các văn bản tố tụng của Tòa án. Bản thân anh H cũng đã biết việc chị L có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh, nhưng anh H không có mặt làm việc tại Tòa án và cũng không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng như đối với việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
1. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81,82,83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 144 khoản 4 Điều 147 và §iÒu 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị L ly hôn anh Lại Đức H - Về con chung: Giao cho chị Trần Thị L tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung cháu Lai Yến N, sinh ngày 06 tháng 01 năm 2023 kể từ khi vợ chồng ly hôn cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Lại Đức H không có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con chung. Anh H có quyền đi lại thăm nom con chung.
- Án phí: Chị Trần Thị L nộp án phí ly hôn sơ thẩm để sung ngân sách nhà nước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Trần Thị L có đơn khởi kiện về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn với anh Lại Đức H có nơi cư trú tại: Xóm 6, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Tòa án nhân dân huyện K thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1, Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa vắng mặt bị đơn là anh Lại Đức H, anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không rõ lý do. Chị L có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy để đảm bảo quyền lợi của các đương sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị L và anh Lại Đức H có đăng ký kết hôn ngày 04 tháng 03 năm 2022 tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh H là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị về làm ăn sinh sống cùng gia đình anh H tại xóm 6, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Quá trình vợ chồng chung sống H phúc được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn do cuộc sống luôn bất đồng quan điểm, chị L cho rằng bản thân anh H ham chơi, không tu trí làm ăn, rượu chè và còn đánh đập chị nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Do cuộc sống chung không có H phúc nên chị L và anh H đã sống ly thân nhau một năm nay mỗi người một nơi và không quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án anh H không có văn bản ý kiến, không có bản tự khai và không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên tòa anh H vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện anh H có thái độ bỏ mặc và không thiện trí trong việc giải quyết mâu thuẫn vợ chồng, không có biện pháp nào hàn gắn tình cảm, hôn nhân của anh chị đã rơi vào tình trạng trầm trọng và chỉ tồn tại trên danh nghĩa.
Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Q thể hiện: Anh H là công dân xã Q, có đăng ký hộ khẩu thường trú và đang sinh sống tại xóm 6, xã Q. Sau thời gian tìm hiểu anh H và chị L đã đăng ký kết hôn với nhau tháng 3 năm 2022. Sau khi kết hôn anh chị về sinh sống cùng gia đình bà Nguyễn Thị N1 ( mẹ đẻ anh H) ở xóm 6, xã Q. Qua nắm bắt tại chính quyền sơ sở được biết anh H chị L chung sống đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống và vợ chồng xảy ra va chạm cãi cã nhau. Sau khi sinh con được một tháng thì chị L bế con về nhà bố mẹ đẻ ở và sinh sống từ đó đến nay không về chung sống với anh H nữa. Con chung của vợ chồng chị L anh H có một con chung cháu Lại Yên N sinh ngày 06 tháng 01 năm 2023. Về mức thu nhập của chị L và anh H do cả hai anh chị làm tự do nên chính quyền cơ sở không nắm được cụ thể mức thu nhập của hai anh chị. Nay chị L xin ly hôn anh H đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết.
Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh H đã đến mức trầm trọng không thể khắc phục được, anh chị đã có thời gian sống ly thân nhau một năm nay và không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng, hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.
[3] Về con chung: Chị L và anh H có một con chung cháu Lại Yên N, sinh ngày 06 tháng 01 năm 2023. Hiện cháu N đang ở cùng với chị L. Nay ly hôn chị L có nguyện vọng được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung của hai vợ chồng và không yêu cầu anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con. Về phía anh H không có ý kiến gì về việc giải quyết các vấn đề trong vụ án, cũng như không có ý kiến gì về việc nuôi con sau khi ly hôn. Con chung của chị L và anh H mới 15 tháng tuổi do vậy theo quy định của pháp luật chị L được quyền nuôi dưỡng con chung khi vợ chồng ly hôn Nay để không làm ảnh hưởng sự phát triển bình thường của cháu và đảm bảo quyền lợi của con chung sau khi ly hôn nên giao cháu N cho chị L tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng kể từ khi vợ chồng ly hôn cho đến khi con chung thành niên và tự lập được cuộc sống. Về vấn đề cấp dưỡng đối với con chung do chị L không yêu cầu cấp dưỡng. Việc chị L không yêu cầu cấp dưỡng là hoàn toàn tự nguyện do vậy không buộc anh H phải cấp dưỡng đối với con chung là phù hợp với với điều 82, 83 Luật Hôn nhân nhân gia đình và phù hợp với thực tế điều kiện nuôi dưỡng con của các bên đương sự.
[4] Về án phí: Căn cứ Điều 144. Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Trần Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 144; khoản 4 Điều 147; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp , quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị L.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị L và anh Lại Đức H. (Quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh H chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật)
2. Về con chung: Giao cháu Lại Yến N, sinh ngày 06 tháng 01 năm 2023 cho chị Trần Thị L tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng kể từ khi vợ chồng ly hôn cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi và tự lập được cuộc sống. Anh Lại Đức H không có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con chung và anh H có quyền đi lại thăm nom con chung. Không bên nào được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc con chung.
3. Về án phí: Chị Trần Thị L phải nộp 300.000 đồng ( Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002054 ngày 06 tháng 11 năm 2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện K, tỉnh Ninh Bình.
Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 09/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 09/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về