Bản án 09/2023/LĐ-ST về tranh chấp hợp đồng lao động và yêu cầu thoái thu bảo hiểm xã hội

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 09/2023/LĐ-ST NGÀY 17/11/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ YÊU CẦU THOÁI THU BẢO HIỂM XÃ HỘI

Ngày 17 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử công khai vụ án thụ lý số: 33/2023/TLST-LĐ ngày 12 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng lao động và yêu cầu thoái thu bảo hiểm xã hội”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2023/QĐXX-ST ngày 30 tháng 10 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Khổng Thị M, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Khu B, xã V, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Bị đơn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ.

Địa chỉ: Đường N, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Xuân L - Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh P.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Lưu Quốc T - Trưởng phòng quản lý thu -sổ, thẻ Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Vũ Thị L1, sinh năm 1995;

Địa chỉ: Thôn M, xã B, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.

(Các đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết tại Tòa án nguyên đơn chị Khổng Thị M trình bày:

Khoảng tháng 12 năm 2012 chị có cho em họ là Vũ Thị L1, sinh năm 1996 mượn hồ sơ sơ yếu lý lịch để xin vào làm việc tại Công ty TNHH ACE khu công nghiệp T thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Sau đó chị L1 đã được công ty A ký hợp đồng lao động và đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Chị L1 làm việc tại Công ty A đến tháng 02/2014 thì thôi việc. Trong thời gian làm việc tại tại Công ty A chị L1 đã được cấp sổ bảo hiểm xã hội mang tên chị là Khổng Thị M với số sổ bảo hiểm xã hội là 2512015xxx. Trong khoảng thời từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 bản thân chị M đang làm việc tại Công ty TNHH J tại khu công nghiệp K thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc và cũng được công ty J1 đóng bảo hiểm xã hội với số sổ bảo hiểm là 26110207xx và đã hưởng trợ cấp bảo hiểm một lần. Sau đó chị có đi làm ở công ty khác vào năm 2017 được cấp sổ lần hai số sổ bảo hiểm là 26110207xx. Nay chị đi làm thủ tục hưởng bảo hiểm xã hội một lần thì phát hiện bị trùng thời gian đóng bảo hiểm từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 nên chị khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì giải quyết:

1. Yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng lao động giữa chị Vũ Thị L1 (khi ký đã dùng tên Khổng Thị M) với Công ty TNHH A từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 là vô hiệu.

2. Buộc Bảo hiềm xã hội tỉnh Phú Thọ thoái thu khoảng thời gian đóng trùng bảo hiểm xã hội của số sổ bảo hiểm xã hội 2512015xxx mang tên Khổng Thị M tại Công ty TNHH A từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014.

Chị M tự nguyện xin chịu án phí sơ thẩm.

Chị Khổng Thị M đề nghị được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn, ông Lưu Quốc T - Trưởng phòng quản lý thu - sổ, thẻ Bảo hiểm xã hội tỉnh P trình bày:

Tháng 12/2012, Công ty TNHH A, TP V, tỉnh Phú Thọ có làm thủ tục đóng bảo hiểm xã hội cho chị Khổng Thị M, sinh ngày 20/8/1993 theo quy định pháp luật.

Chị M đóng bảo hiểm xã hội theo sổ bảo hiểm số 2512015xxx mang tên Khổng Thị M. Đến tháng 03/2014 Công ty A không đóng bảo hiểm xã hội cho chị M nữa. Hiện nay chị M chưa nhận tiền thanh toán bảo hiểm tại Công ty TNHH A. Nay chị Khổng Thị M khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động giữa chị Khổng Thị M và Công ty TNHH A vô hiệu; yêu cầu Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ thoái thu thời gian đóng trùng bảo hiểm xã hội từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 tại số sồ bảo hiểm 2512015xxx mang tên Khổng Thị M tại nơi làm việc là Công ty TNHH A, khu công nghiệp T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ với lý do: Chị M có cho em họ là chị Vũ Thị L1 mượn hồ sơ sơ yếu lý lịch mang tên chị là Khổng Thị M để chị L1 ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH A, khu công nghiệp T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Sau khi ký hợp đồng lao động, chị L1 đã được Công ty A đóng bảo hiểm theo quy định, thời gian đóng bảo hiểm là từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 số sổ bảo hiểm là số 2512015xxx mang tên Khổng Thị M. Trong khi đó từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014, chị Khổng Thị M đang làm việc tại Công ty TNHH J2 tại Khu công nghiệp K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc và cũng được đóng bảo hiểm xã hội với số sổ bảo hiểm là 26110207xx. Hiện nay công ty TNHH A đã có quyết định tuyên bố phá sản theo Quyết định số 01/2019/QĐ - TBPS ngày 19/06/2019 của Tòa án nhân tỉnh Phú Thọ. Chị Vũ Thị L1 thừa nhận đã mượn hồ sơ lý lịch mang tên chị Khổng Thị M để ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH A. Do thời gian đã lâu chị L1 không còn lưu giữ hợp đồng lao động đã ký kết với Công ty TNHH A. Chị Vũ Thị L1 đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Khổng Thị M tuyên bố hợp đồng lao động giữa chị Khổng Thị M và Công ty TNHH A vô hiệu, yêu cầu Bảo hiểm xã hội tỉnh P thoái thu thời gian đóng trùng bảo hiểm xã hội từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 tại số sổ bảo hiểm số 2512015xxx mang tên Khổng Thị M tại nơi làm việc là Công ty TNHH A, khu công nghiệp T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

Quan điểm của Bảo hiểm xã hội tỉnh P với yêu cầu khởi kiện của chị Khổng Thị M như sau:

Để đảm bảo quyền lợi cho chị Khổng Thị M, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì:

1. Tuyên bố hợp đồng lao động giữa chị Khổng Thị Mvà Công ty TNHH A là vô hiệu.

2. BHXH tỉnh P thoái thu thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 tại sổ bảo hiểm số 2512015xxx mang tên Khổng Thị M tại nơi làm việc là Công ty TNHH A, khu công nghiệp T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ với số tiền là: 7.938.112 (Bảy triệu chín trăm ba mươi tám nghìn một trăm mười hai đồng) theo quy định của pháp luật.

Hiện nay Bảo hiểm xã hội không lưu giữ Hợp đồng lao động ký kết giữa Công ty TNHH A với chị Khổng Thị M nên không cung cấp cho Tòa án được.

Ngoài ra, do điều kiện công việc nên Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ đề nghị Tòa án được vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa xét xử vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Vũ Thị L1 trình bày:

Tháng 12/2012, chị L1 có mượn hồ sơ sơ yếu lý lịch của chị họ chị là chị Khổng Thị M để ký hợp đồng lao động với công ty TNHH A, khu công nghiệp T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Sau khi ký hợp đồng lao động chị L1 được Công ty TNHH A đóng bảo hiểm xã hội theo số sổ bảo hiểm 2512015xxx mang tên Khổng Thị M. Chị L1 làm việc tại Công ty TNHH A từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 thì thôi việc. Trong khoảng thời gian đó, chị họ chị là chị Khổng Thị M cũng đang làm việc tại Công ty TNHH J tại khu công nghiệp K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Công ty A đã phá sản vào năm 2019, chị L1 cũng không còn lưu giữ hợp đồng lao động giao kết giữa chị và công ty TNHH A. Để đảm bảo quyền lợi cho chị Khổng Thị M khi tham gia bảo hiểm xã hội, chị Vũ Thị L1 đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Khổng Thị M tuyên bố hợp đồng lao động giữa chị và Công ty TNHH A (khi giao kết đã lấy tên chị Khổng Thị M) là vô hiệu. Yêu cầu bảo hiểm xã hội thoái thu số tiền đóng trùng bảo hiểm xã hội tại số sổ bảo hiểm 2512015xxx mang tên Khổng Thị M tại Công ty THHH ACE khu Công nghiệp T từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014. Đối với số tiền thoái thu thời gian đóng bảo hiểm nêu trên, chị L1 tự nguyện đề nghị Bảo hiểm xã hội tỉnh P trả cho chị Khổng Thị M.

Chị Vũ Thị L1 đề nghị được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Chị Khổng Thị M khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì: Tuyên bố hợp đồng lao động giữa chị Khổng Thị M và Công ty TNHH A là vô hiệu, buộc BHXH tỉnh P thoái thu thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 tại sổ bảo hiểm số 2512015xxx mang tên Khổng Thị M tại nơi làm việc là Công ty TNHH A, khu công nghiệp T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Căn cứ khoản 5 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện của chị Khổng Thị M là tranh chấp lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

[1.2] Về trình tự thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của cho các đương sự. Nguyên đơn chị Khổng Thị M, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Vũ Thị L1 đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Chị M, chị L1 và đại diện theo ủy quyền của BHXH tỉnh P ông Lưu Quốc T đều đề nghị được xét xử vắng mặt và đã có lời khai thể hiện quan điểm của mình nên căn cứ vào khoản 4 Điều 207 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị M, chị L1 và Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ. Do Tòa án không tiến hành việc thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát không tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại Điều 27 Thông tư số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của chị Khổng Thị M khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì: Tuyên bố hợp đồng lao động giữa chị Khổng Thị M và Công ty TNHH A là vô hiệu; buộc BHXH tỉnh P thoái thu thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 tại sổ bảo hiểm số 2512015xxx mang tên Khổng Thị M tại nơi làm việc là Công ty TNHH A, khu công nghiệp T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, HĐXX xét thấy: Căn cứ lời khai của chị Khổng Thị M, lời khai của chị Vũ Thị L1 thời điểm từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014, người thực tế làm việc tại công ty TNHH A là chị Vũ Thị L1 nhưng Công ty TNHH A lại đóng BHXH cho chị Khổng Thị M. Thực tế từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014, chị Khổng Thị M đang làm việc tại Công ty TNHH J2 tại Khu công nghiệp K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc và cũng được đóng bảo hiểm xã hội với số sổ bảo hiểm là 26110207xx. Chính việc này dẫn đến hệ quả là chị Khổng Thị M có khoảng thời gian đóng trùng bảo hiểm xã hội từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 tại số sổ bảo hiểm 2512015xxx mang tên Khổng Thị M.

Hiện nay, Công ty TNHH A đã phá sản, BHXH tỉnh P và chị Vũ Thị L1 không lưu giữ hợp đồng lao động giao kết giữa Công ty TNHH A và chị Khổng Thị M nhưng căn cứ Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, thời điểm chị Vũ Thị L1 lấy tên của chị Khổng Thị M để làm việc tại Công ty TNHH A giữa hai bên phải có hợp đồng lao động thì công ty TNHH A mới làm thủ tục đóng bảo hiểm xã hội cho chị Khổng Thị M. Mặt khác cùng thời điểm tháng 12/2012 đến tháng 02/2014, chị Khổng Thị M đang làm việc tại Công ty TNHH J2 tại Khu công nghiệp K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc và cũng được đóng bảo hiểm xã hội với số sổ bảo hiểm là 26110207xx. Chị Khổng Thị M khẳng định chưa bao giờ làm việc tại Công ty TNHH A có căn cứ xác định người thực tế giao kết hợp đồng lao động và làm việc tại công ty TNHH A từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 không phải là chị Khổng Thị M mà là chị Vũ Thị L1. Do đó hợp đồng lao động giao kết giữa chị Khổng Thị M và công ty TNHH A từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 vô hiệu do có sự lừa dối vì không đúng chủ thể giao kết hợp đồng. Hậu quả của hợp đồng lao động vô hiệu là chị Khổng Thị M có khoảng thời gian bị đóng trùng BHXH từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 tại số sổ bảo hiểm 2512015xxx mang tên Khổng Thị M. Việc đóng trùng BHXH ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị Khổng Thị M khi tham gia Bảo hiểm xã hội nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Khổng Thị M về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động giữa chị Khổng Thị M và Công ty TNHH A là vô hiệu; buộc BHXH tỉnh P thoái thu số tiền đóng trùng bảo hiểm xã hội từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 tại số sổ bảo hiểm 2512015xxx mang tên Khổng Thị M.

Đối với số tiền thoái thu bảo hiểm 7.938.112 (Bảy triệu chín trăm ba mươi tám nghìn một trăm mười hai đồng) phải trả cho chị Vũ Thị L1 là người thực tế làm việc tại công ty TNHH A nhưng chị Vũ Thị L1 đề nghị giao toàn bộ số tiền này cho chị Khổng Thị M, xét thấy yêu cầu của chị L1 là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên được hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí:

Yêu cầu khởi kiện của chị Khổng Thị M được chấp nhận nên BHXH tỉnh P phải chịu án phí sơ thẩm nhưng chị Khổng Thị M tự nguyện chịu toàn bộ số tiền án phí sơ thẩm và không yêu cầu Bảo hiểm xã hội tỉnh P phải chịu án phí sơ thẩm. Xét thấy đây là sự tự nguyện của chị Khổng Thị M nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 122, 127, 132, 137, 389 Bộ Luật dân sự 2005; Điều 30 Bộ Luật lao động năm 1994, Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006; khoản 5 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Khổng Thị M.

1.1. Tuyên bố hợp đồng lao động giữa chị Khổng Thị M (do chị Vũ Thị L1 lấy tên của chị Khổng Thị M khi giao kết hợp đồng) và Công ty TNHH ACE Khu công nghiệp T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ vô hiệu.

1.2. Buộc Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ thoái thu thời gian đóng bảo hiểm xã hội của chị Khổng Thị M tại Công ty THHH ACE khu Công nghiệp T từ tháng 12/2012 đến tháng 02/2014 tại số sổ bảo hiểm 2512015xxx với số tiền là: 7.938.112 (Bảy triệu chín trăm ba mươi tám nghìn một trăm mười hai đồng) trả cho chị Khổng Thị M.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí: Chị Khổng Thị M tự nguyện chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí lao động sơ thẩm. Xác nhận chị M đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004378 ngày 05/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2023/LĐ-ST về tranh chấp hợp đồng lao động và yêu cầu thoái thu bảo hiểm xã hội

Số hiệu:09/2023/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 17/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;