TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 09/2021/HSST NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 124/2020/HSST ngày 31 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXXST-HS ngày 15/01/2021 đối với bị cáo: Phan T(tên gọi khác: B), giới tính: Nam,sinh ngày 07/02/1991 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Khu phố C, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ học vấn lớp 7/12; nghề nghiệp: Không; con ông Phan Y, sinh năm 1958 và bà Lê Thị L, sinh năm 1960; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con út; vợ con chưa có; tiền sự: Không.
Tiền án: có 02 tiền án.
+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2018/HSST ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ xử phạt 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HSST ngày 21/3/2019 của của Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt với Bản án số 15/2018/HSST ngày 11/9/2018 là 16 tháng tù (thi hành xong ngày 29/4/2020).
Nhân thân:
+ Ngày 27/6/2013 bị của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (thi hành xong ngày 27/12/2013).
+ Ngày 27/10/2017, bị Công an phường Đông Lương, thành phố Đông Hà ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 01/10/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị cho đến nay, có mặt.
- Bị hại:
+ Bà Lê Thị H, sinh năm 1961; địa chỉ: Số 45 Trần Đại N, Khu phố M, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
+ Bà Phan Thị B, sinh năm 1957; địa chỉ: Số 60/3 đường Lê L, Khu phố H, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn L, sinh năm 1980:
địa chỉ: Khu phố MA, phường L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong thời gian từ ngày 30/7/2020 đến ngày 10/8/2020, Phan T thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản của người khác như sau:
Vụ thứ nhất: Vào khoảng 09 giờ 40 phút ngày 30/7/2020, Phan T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, BKS 74H2-8776 đi dọc theo tuyến đường Trần Đại Nghĩa hướng ra đường Lê Thánh Tông. Khi đi đến nhà số 45 đường Trần Đại Nghĩa thuộc Khu phố 1, Phường 5, thành phố Đông Hà thì Phan T phát hiện một xe đạp điện hiệu Yamaha của bà Lê Thị H dựng sát lề đường, không có người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm cắp bình điện của xe đạp để mang bán lấy tiền tiêu xài. Phan T điều khiển xe mô tô áp sát xe đạp điện rồi lén lút dùng tay tháo dây nối bình điện và lấy bình điện ra khỏi xe rồi bỏ lên xe mô tô tẩu thoát. Phan T chở bình điện lấy được đến cửa hàng sửa xe đạp điện ở đường Lê Lợi thuộc Khu phố 4, phường Đông Lễ, thành phố Đông Hà và bán cho Trần Văn L với giá 350.000 đồng. Số tiền trên Phan T tiêu xài cá nhân hết 230.000 đồng, còn 120.000 đồng đã giao nộp cho Cơ quan điều tra.
Tại Kết luận định giá tài sản số 97/KLĐG ngày 15/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: Trị giá của bình điện hiệu Yamaha là 1.330.000 đồng.
Vụ thứ hai: Khoảng 10 giờ ngày 10/8/2020, sau khi đi uống thuốc Methadone ở Trung tâm y tế về thì Phan T đi bộ dọc tuyến đường Lê Lợi tìm sơ hở để trộm cắp tài sản đem bán lấy tiền tiều xài. Khi đi đến nhà bà Phan Thị B ở Số 60/3 đường Lê L, Khu phố H, Phường N, thành phố Đ, Phan T quan sát thấy không có ai ở nhà nên Phan T mở cổng đi vào bên trong. Khi vào, Phan T phát hiện ở hành lang bên phải có 01 bàn tròn Inox nên lén lút bưng cái bàn mang ra ngoài. Trong lúc Phan T đang đem cái bàn đi tiêu thụ thì bị Tổ công tác Công an phường Đông Lương bắt giữ.
Tại Kết luận định giá tài sản số 98/KLĐG ngày 15/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: Trị giá của bàn tròn Inox là 750.000 đồng.
Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:
+ 01 bình điện xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha, màu đen, đã qua sử dụng:
+ 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, gắn biển kiểm soát 74H2- 8776, số khung RLCS5C6J0GY209974, số máy 5C6J209974, đã qua sử dụng:
+ Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 120.000 đồng:
+ 01 bàn tròn Inox, có bốn chân xếp, nhãn hiệu Nội Thất Đại Thành, đường kính mặt bàn 115cm, cao 75cm.
Tại bản Cáo trạng số 05/CT-VKS-ĐH ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà đã truy tố bị cáo Phan T(tên gọi khác: B) về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm b Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 173; Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan T (tên gọi khác: B) từ 10 đến 13 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Không ai có yêu cầu gì nên không xem xét. Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 120.000 đồng; tịch thu và tiêu hủy 01 biển số 74H2- 8776.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố và xét xử, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phan T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng đã có đủ cơ sở kết luận: Vào các ngày 30/7/2020 và 10/8/2020 Phan T đã 02 lần có hành vi lén lút chiếm đoạt của người khác. Tài sản Phan T chiếm đoạt được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: 01bình điện hiệu Yamaha là có trị giá 1.330.000 đồng; 01 bàn tròn INOX có trị giá 750.000 đồng. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng, nhưng Phan T đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nhưng Phan T đã liên tiếp 02 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Như vậy, hành vi của bị cáo Phan T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm b Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Điều luật quy định khung hình phạt: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
[3] Xét về tính chất hành vi của bị cáo: Bị cáo là một thanh niên có sức khỏe nhưng lười lao động, thích hưởng thụ. Bị cáo đã bị Tòa án xét xử và cơ quan Công an xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân và ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm minh với hình phạt tù có thời hạn nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để một giảm phần hình phạt cho bị cáo.
Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần phải ban hành quyết định tạm giam để đảm bảo thi hành án.
Đối với ông Trần Văn L là người mua bình điện xe đạp điện của Phan T nhưng không biết đó là tài sản do Phan T trộm cắp mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự trong vụ án này.
[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Lê Thị H 01 bình điện xe đạp điện hiệu Yamaha; trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Phan Thị B 01 bàn tròn INOX các bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.
Ông Trần Văn L mua chiếc bình điện của bị cáo và đã giao nộp lại cho cơ quan điều tra, nhưng ông L không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, số khung RLCS5C6J0GY209974, số máy 5C6J209974 là vật chứng liên quan đến một vụ án khác nên ngày 23/11/2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đông Hà đã chuyển giao vật chứng để giải quyết theo thẩm quyền.
Đối với số tiền 120.000 đồng là tiền bị cáo bán tài sản trộm cắp mà có, nên cần phải tịch thu sung quỹ nhà nước.
Đối với 01 biển số 74H2-8776 là tài sản tạm giữ, quá trình điều tra xác định được biển số trên là của chị Lê Thị Mỹ Nhung bị mất trong quá trình sử dụng, chị Nhung đã được cấp lại biển số, không yêu cầu nhận lại, nên cần tịch thu và tiêu hủy.
Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố bị cáo Phan T (tên gọi khác: B) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 173; Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52 Xử phạt: Phan T (tên gọi khác: B): 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 01/10/2020.
2.Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:
+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 120.000 đồng:
+ Tịch thu và tiêu hủy biển số xe mô tô 74H2-8776.
(Vật chứng hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan Điều tra Công an thành phố Đông Hà và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà lập ngày 14/01/2021).
3.Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.
Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án./.
Bản án 09/2021/HSST ngày 29/01/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 09/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về