Bản án 09/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 135/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 145/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Đặng Văn H (Tên gọi khác: M), sinh năm 1989, tại tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký thường trú: ấp Đ, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở hiện nay: ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: lớp 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn X, sinh năm 1956 và bà Trần Thị H1, sinh năm 1959; Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con út; Có Vợ là Ngô Xuân Y, sinh năm 1985 và có 03 con (lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2017).

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 14/01/2020 theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số 05/QĐ ngày 07/1/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Đồng Nai.

- Bị hại: Phan Văn T, sinh năm 1979 Đia chỉ: ấp L, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Kim L1, sinh năm 1981 Địa chỉ: ấp L, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng:

1. Ông Huỳnh Tấn T1, sinh năm 1975 Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

2. Ông Nguyễn Điền T2, sinh năm 1985 Địa chỉ: ấp L, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

3. Ông Huỳnh Văn T3, sinh năm 1982 Địa chỉ: ấp L, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

4. Ông Lê Văn L2, sinh năm 1997 Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

5. Ông Lê Văn T4, sinh năm 1996 Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

6. Ông Đỗ Văn V, sinh năm 1979 Địa chỉ: ấp B, xã N1, huyện C, tỉnh Trà Vinh

- Người bào chữa theo luật định của bị cáo: Luật sư Nguyễn Xuân Trường, thuộc Văn phòng Luật sư Xuân Trường - Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ: 30f/7, khu phố 2, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 06/10/2019, sau khi đã uống rượu Đặng Văn H đi sang phòng trọ của anh Huỳnh Tấn T1, sinh năm 1975 ở ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai để tìm anh T1 uống rượu tiếp. khi sang đến nơi thì H thấy anh T1 đang chơi đánh bài với anh Phan Văn T, sinh năm 1979; anh Nguyễn Điền T2, sinh năm 1985; anh Huỳnh Văn T3, sinh năm 1982 tất cả cùng cư trú tại : ấp L, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai nên H ngồi vào xem đánh bài thì có lời qua tiếng lại với anh T, nên anh T và H đánh nhau bằng tay không trong phòng trọ của anh T1. T dùng tay đánh vào mặt của H làm mí mắt bên phải và mũi bị chảy máu. Thấy vậy, anh Huỳnh Tấn T1 vào can ngăn thì anh T bỏ về. Lúc này, H liền lấy 01 cái búa đóng đinh dài khoảng 30 cm, cán bằng gỗ, đầu bằng sắt nặng 0,5kg trong phòng trọ của anh T1 đuổi theo anh T và dùng búa đánh vào đầu anh T 01 cái gây thương tích. Sau đó, anh T đi bộ sang nhà anh Lê Văn L2, sinh năm 1997, anh Lê Văn T4, sinh năm 1996 (cả 02 là cháu anh T) cùng ngụ tại ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai (cách nơi xảy ra vụ việc khoảng 50 m) nói với anh và anh T3 chở anh T đi bệnh viện cấp cứu. Do thấy anh T bị chảy máu nên Ten, Lang và anh T tiếp tục đi sang phòng trọ của T1 cãi nhau với H. Lúc này có Đỗ Văn V, sinh năm 1979, ngụ tại: ấp B, xã N1, huyện C, tỉnh Trà Vinh lấy búa đóng đinh mà H dùng để đánh anh T đập lên đầu anh Ten đang đội nón bảo hiểm, làm bể nón bảo hiểm của anh Ten nhưng không gây thương tích gì. Sau đó, anh T được gia đình đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Đồng Nai. Đến ngày 14/10/2019, chị Nguyễn Thị Kim L1 vợ anh T làm đơn tố cáo Đặng Văn H đến Công an xã Long Tân lập hồ sơ ban đầu và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch khởi tố điều tra rồi chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai để điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: 01 cái búa đóng đinh dài khoảng 30 cm, cán bằng gỗ đầu bằng sắt nặng 0,5 kg. Bút lục (số 35).

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 1113/TgT/2019 ngày 12/122019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận về thương tích của anh Phan Văn T như sau: “Tổn thương khuyết sọ bán cầu trái kích thước 9,5x12,5 cm, đáy phập phồng, tỷ lệ 41%; Tổn thương dập não trán trái kích thước 0,9x1,7cm, tỷ lệ 31%; Tổn thương tụ máu dưới màng cứng đã phẫu thuật lấy máu tụ, tỷ lệ 21%; Chấn thương sọ não gây di chứng liệt tay phải mức độ nhẹ (yếu tay phải), tỷ lệ 21%; Sẹo vùng đỉnh trái kích thước 1,3x0,5cm, tỷ lệ 01%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 75%. Bút lục (số 45-47).

Tại bản Kết luận giám định pháp y tâm thần số 157/KL-VPYTW ngày 31/3/2020 của Viện pháp y Tâm thần Trung ương Biên Hòa kết luận Phan Văn T: Về y học “Đương sự bị bệnh mất trí sau chấn thương sọ não mức độ nhẹ (F02.8-ICD.10)”. Về tỷ lệ tổn thương cơ thể do di chứng rối loạn tâm thần và hành vi “Tỷ lệ tổn thương cơ thể do bệnh mất trí sau chấn thương sọ não mức độ nhẹ là 21%; Tỷ lệ thương tật do Trung tâm pháp y Đồng Nai kết luận là 75%; Theo phương pháp cộng dồn 75%+5,25%=80,25%, làm tròn là 80%; Tổng tỷ lệ % tổn thương cơ thể và tổn thương do bệnh mất trí sau chấn thương sọ não mức độ nhẹ là 80%”. Bút lục số (48, 49).

Về trách nhiệm dân sự: ông Phan Văn T yêu cầu bị cáo Đặng Văn H bồi thường số tiền 129.439.861 đồng (Một trăm hai mươi chín triệu bốn trăm ba mươi chín nghìn tám trăm sáu mươi mốt đồng). Hiện bị cáo H chưa bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 2556/CT-VKS-P2 ngày 10/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Đặng Văn H về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 và Điều 15 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:

Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, chỉ xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ, không đáng có mà bị cáo đã có hành vi dùng cây búa đánh vào vùng đầu ông Phan Văn T, gây thương tích với tỷ lệ 80%, việc bị hại không chết là nằm ngoài ý muốn của bị cáo. Tuy nhiên, xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử bị cáo Đặng Văn H phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 và Điều 15 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 14 năm tù. Về xử lý vật chứng đề nghị giải quyết theo luật định.

Luật sư Nguyễn Xuân Trường bào chữa cho bị cáo H theo luật định phát biểu ý kiến:

Thng nhất tội danh Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh kinh tế khó khăn là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi của bị cáo thực hiện trong vụ án:

Khong 21 giờ ngày 06/10/2019, tại phòng trọ ở ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai, Đặng Văn H đã có hành vi dùng cái búa đóng đinh dài khoảng 30 cm, cán bằng gỗ, đ ầu bằng sắt nặng 0,5kg đập một cái vào đầu của anh Phan Văn T, gây chấn thương sọ não. Tổng tỷ lệ % tổn thương cơ thể và tổn thương do bệnh mất trí sau chấn thương sọ não mức độ nhẹ của anh T là 80%.. Hành vi của bị cáo Đặng Văn H đã phạm vào tội “Giết người”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 và Điều 15 Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi của bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, chỉ xuất phát từ một mâu thuẫn vô cớ với người bị hại, bị cáo đã có hành vi dùng cây búa là hung khí nguy hiểm đánh vào vùng đầu là vùng trọng yếu trên cơ thể của người bị hại, gây thương tích cho ông T với tỉ lệ 80%, để lại di chứng suốt đời cho người bị hại, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người bị hại, phạm tội chưa đạt, việc người bị hại không chết là do được cứu chữa kịp thời là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo, thể hiện là một người côn đồ, hung hãn, xem thường pháp luật, gây hoang mang cho dư luận nơi xảy ra vụ án và làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Sau khi gây án cho đến nay, gia đình và bị cáo không có trách nhiệm hỗ trợ và bồi thường cho phía gia đình bị hại một khoản tiền nào để khắc phục H quả. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm, cách ly xã hội thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên, xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đông con, bị cáo là lao động chính trong gia đình là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Với các tình tiết giảm nhẹ trên, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, chiếu cố cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Quan điểm của Luật sư Nguyễn Xuân Trường bào chữa cho bị cáo H theo luật định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa ông Phan Văn T và vợ là bà Nguyễn Thị Kim L1 yêu cầu bồi thường số tiền 126. 439.861 đồng (Một trăm hai mươi chín triệu bốn trăm ba mươi chín nghìn tám trăm sáu mươi mốt đồng) bao gồm chi phí viện phí, tiền xe đi lại gia đình đã bỏ ra, thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị và tiền bồi thường tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật. Ngoài yêu cầu trên không yêu cầu gì khác., Xét thấy yêu cầu của bị hại về vấn đề bồi thường là hợp lý, có căn cứ đúng pháp luật nên buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 126.439.000 đồng (làm tròn) và bồi thường tổn thất tinh thần bằng 50 tháng lương cơ sở tương đương số tiền 74.500.000 đồng (50 tháng x1.490.000 đồng).

Tổng cộng số tiền buộc bị cáo bồi thường là 200.939.000đ (Hai trăm triệu chín trăm ba mươi chín ngàn) đồng

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với vật chứng thu giữ 01 cái búa đóng đinh dài khoảng 30 cm, cán bằng gỗ đầu bằng sắt nặng 0,5 kg là công cụ dùng vào việc phạm tội. Nghĩ cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và 10.046.950đ (5% x 200.939.000đ) án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Đặng Văn H phạm tội “Giết người”.

Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 15, điểm s, khoản 1 Điều 51, Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Đặng Văn H 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/01/2020.

[2] Về xử lý vật chứng:

Căn cứ các Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy 01 cái búa đóng đinh dài khoảng 30 cm, cán bằng gỗ đầu bằng sắt nặng 0,5 kg (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số NK21/025 ngày 16/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai)

[3] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 2 Điều 48 BLHS 2015; khoản 1 Điều 584; Điều 591 Bộ luật dân sự 2015;

Buộc bị cáo Đặng Văn H bồi thường số tiền 200.939.000đ (Hai trăm triệu chín trăm ba mươi chín ngàn) đồng cho ông Phan Văn T.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hướng dẫn mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 10.046.950đ án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo luật định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội giết người

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;