Bản án 09/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 217/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Lê Thanh H (tên gọi khác: Không), sinh ngày 12 tháng 12 năm 1976 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn H, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 5/12; nghề nghiệp: Không; giới tính: Nam; con ông Lê Thanh H, sinh năm 1943 (đã chết) và bà Hoàng Thị G, sinh năm 1945; có vợ là Vy Thị E, sinh năm 1978 (đã ly hôn) và có 02 người con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Đã từng bị kết án, tại Bản án số 104/2006/HS-ST ngày 09/7/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội Vận chuyển hàng cấm (đã được xóa án tích theo luật), chưa bị xử lý vi phạm hành chính và xử lý kỷ luật lần nào, bị bắt để tạm giữ, tạm giam từ ngày 08 tháng 9 năm 2020 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 50 phút, ngày 07/9/2020 Công an thành phố L đang làm nhiệm vụ tại khu vực trước cổng Công ty bật lửa L thuộc tổ 4, khối 8, phường Đ, thành phố L Công an phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn phát hiện, bắt quả tang Lê Thanh H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của Lê Thanh H 02 túi nilon màu trắng bên trong mỗi túi chứa 02 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng. Lê Thanh H khai nhận đó là chất ma túy Methamphetamine Lê Thanh H mua để sử dụng cho bản thân.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Thanh H khai: Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 07/9/2020 Lê Thanh H một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 12F2 - 5125 đi đến quán nước cổng chợ K, đường T, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn gặp một người nam thanh niên tên Phương (không rõ họ, tên đệm, địa chỉ), Lê Thanh H biết Phương bán ma túy do Lê Thanh H đã mua ma túy với P vài lần vào thời gian trước đó, Lê Thanh H hỏi mua ma túy với P thì được P đồng ý, Lê Thanh H đưa cho P 270.000 đồng, P cầm tiền rồi bảo Lê Thanh H ngồi chờ rồi bỏ đi khoảng 10 phút sau đó P quay lại đưa cho Lê Thanh H 01 túi nilon màu trắng bên trong có 04 viên ma túy ngựa” và ma túy đá”, Lê Thanh H nhận túi ma túy với P và xin P thêm 02 túi nilon nhỏ (chưa sử dụng) rồi chia ma túy ra 02 gói bằng nhau, sau đó Lê Thanh H cất giấu ma túy vào túi quần bên trái đang mặc.

Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, Lê Thanh H đang điều khiển xe mô tô đi về nhà để sử dụng ma túy thì có một người phụ nữ số điện thoại 0983.545.946 gọi đến và tự xưng là em của T (T là bạn bè quen biết ngoài xã hội của Lê Thanh H). Người phụ nữ bảo Lê Thanh H có ma túy ”đá, ngựa” thì mang đến nhà ở gần trường Mầm non 2 - 9, phường Đ, thành phố L để cùng sử dụng và sẽ đưa cho Lê Thanh H 300.000 đồng, Lê Thanh H đồng ý và một mình điều khiển xe mô tô đi đến địa chỉ trên. Khi Lê Thanh H đi đến trước cổng Công ty bật lửa L thuộc tổ 4, khối 8, phường Đ, thành phố L thì bị Công an phường Đ, thành phố L phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của Hữu Lê Thanh H 02 túi nilon màu trắng bên trong mỗi túi chứa 02 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng như đã nêu ở trên.

Tại bản kết luận giám định số 271/KL-PC09 ngày 09/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Các viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Thanh H đã giám định là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,558 gam.

Tại cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn để xét xử đối với bị cáo Lê Thanh H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Tại phần tranh luận: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn luận tội bị cáo Lê Thanh H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Thanh H từ 16 đến 20 tháng tù. Về hình phạt bổ sung, đề nghị không áp dụng đối với bị cáo, do bị cáo không có tài sản riêng. Về vật chứng, áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự đề nghị tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Thanh H; đề nghị tịc thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG lắp kèm sim điện thoại di động. Về án phí, đề nghị buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo nói lời nói sau cùng, xin Hội đồng xét xử giảm nh mức hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã được tống đạt các văn bản quyết định tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Khoảng 23 giờ 50 phút, ngày 07/9/2020, tại khu vực trước cổng Công ty bật lửa L thuộc tổ 4, khối 8, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn Công an phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện và bắt quả tang Lê Thanh H đang tàng trữ 0,558 gam ma túy Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và với khối lượng chất ma túy Methamphetamine trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam thì người lưu giữ chất ma túy phải chịu trách nh iệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến an ninh trật tự xã hội và quyền quản lý tân dược của Nhà nước, làm phát sinh những tệ nạn xấu trong xã hội. Do đó cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng: Không có [5] Xét về tình tiết giảm nh : Tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo đã từng bị kết án về tội Vận chuyển hàng cấm và bị xử phạt 03 năm tù, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục phạm tội, cho thấy bị cáo là người không chấp hành pháp luật của Nhà nước.

Do đó, đây cũng là tình tiết để xem xét khi áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung, qua xác minh bị cáo không có tài sản riêng. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Vật chứng gồm: Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu Honda Wave màu sơn đỏ, biển kiểm soát 12F2 – 51XX, số khung 104192, số máy C70E8581675, quá trình điều tra, xác minh chưa làm rõ được chủ sở hữu, Cơ quan điều tra đã ra Thông báo truy tìm chủ sở hữu chiếc xe mô tô chưa có kết quả. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. 01 phong bì niêm phong bên trong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định nên cần tịch thu để tiêu hủy; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Thanh H là giấy tờ tùy thân và không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu tím than kèm 01 sim điện thoại di động là P tiện liên lạc trong việc phạm tội nên cần tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước.

[9] Đối với người tên P đã bán ma túy cho Lê Thanh H, do không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không thể xem xét, xử lý trong vụ án này.

[10] Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát luận tội bị cáo và đề nghị giải quyết toàn bộ nội dung vụ án là đúng pháp luật, phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 61; Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 61; Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Thanh H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Lê Thanh H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt để tạm giữ, tạm giam là từ ngày 08 tháng 9 năm 2020.

2. Về tang vật xử lý như sau:

- Tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định;

- Trả lại cho bị cáo Lê Thanh H 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Thanh H;

- Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu tím than, kèm 01 sim điện thoại di động.

(chi tiết các vật chứng trên được miêu tả theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/12/2020 giữa Công an thành phố L với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Thanh H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;