TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số: 264/2020/TLST– HNGĐ ngày 11/11/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: anh Phan Văn T – sinh năm 1992 Địa chỉ: Thôn 03, xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (vắng mặt, có lý do)
2. Bị đơn: chị Lộc Thị Di – sinh năm 1995 Địa chỉ: Thôn 03, xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái; Chỗ ở: Thôn 11, xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/11/2020, bản tự khai nguyên đơn Phan Văn T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: anh và chị Lộc Thị D kết hôn vào ngày 16/4/2013 trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuân, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm về kinh tế gia đình, nên thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau. Vợ chồng sống ly thân 04 tháng nay, hiện tại chị D đang sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ tại Thôn 11, xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Đến nay xác định tình cảm không còn, anh T đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Về con chung: anh và chị D có 01 con chung Phan Thị Hồng Đ, sinh ngày 19/6/2013, hiện tại đang ở cùng anh. Sau khi ly hôn, anh T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 03/12/2020 và tại phiên tòa bị đơn Lộc Thị D nhất trí về thời gian, địa điểm, điều kiện kết hôn với nội dung như anh T đã trình bày. Quá trình vợ chồng chung sống thực tế có mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T lười lao động, ham chơi cờ bạc và không chăm lo cho gia đình. Nay anh T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, xác định tình cảm không còn chị D có quan điểm đồng ý ly hôn.
Về con chung: chị và anh T có 01 con chung Phan Thị Hồng Đ, sinh ngày 19/6/2013. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con số tiền: 2.000.000đ/tháng.
Về tài sản và công nợ chung: chị Di không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải, do đó vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Yên phát biểu ý kiến cho rằng trong quá trình tố tụng, Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử về nội dung vụ án như sau:
Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Về quan hệ hôn nhân giải quyết cho anh T được ly hôn với chị D, về con chung giao anh T trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phan Thị Hồng Đ, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: anh Phan Văn T và chị Lộc Thị D kết hôn vào ngày 16/4/2013 có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Việc kết hôn này tuân thủ đúng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nhân hợp pháp.
Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: qua lời khai của các đương sự quá trình chung sống thực tế vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm về kinh tế gia đình, chị D cho rằng anh T lười lao động, không chăm lo cho gia đình, đến tháng 8/2020 thì mâu thuẫn trở nên gay gắt và không thể khắc phục được. Lời khai của các đương sự là phù hợp với nội dung biên bản xác minh của Tòa án tại Thôn 03, xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Tại bản tự khai, anh T, chị D đều xác định tình cảm không còn, yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn theo quy định của pháp luật Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.
Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa anh T và chị D đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn, có căn cứ chấp nhận.
[3] Về con chung: anh T và chị D có 01 con chung tên Phan Thị Hồng Đ, sinh ngày 19/6/2013, nay anh chị đều có nguyện vọng được nuôi con. Theo tài liệu các bên đương sự cung cấp và thông tin được chính quyền địa phương xác nhận, anh T và chị D đều có nơi cư trú ổn định, tuy nhiên cả hai thường xuyên đi làm ăn xa. Mức thu nhập bình quân hàng tháng hàng tháng của vợ chồng là công nhân làm việc tại công ty khoảng 10.000.000đ/tháng. Mặt khác, tại đơn đề nghị cháu Đ có nguyện vọng ở cùng bố, và hiện tại đang ở tại Thôn 03, xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái có điều kiện thuận lợi đảm bảo mọi mặt về nơi ở và học tập.
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, cần giao con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, là phù hợp. Anh T không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: anh Phan Văn T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 56; 57; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân gia đình;
Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1. Về quan hệ hôn nhân: anh Phan Văn T được ly hôn với chị Lộc Thị D.
2. Về con chung: Giao cho anh Phan Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Phan Thị Hồng Đ, sinh ngày 19/6/2013 cho đến khi đủ 18 tuổi. Chị Lộc Thị D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: anh Phan Văn T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số AA/2017/0008346 ngày 11/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Anh T đã nộp đủ tiền án phí.
4. Về quyền kháng cáo: án xử công khai sơ thẩm, chị D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 09/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về